Chùa Ngọc Hoàng là tên thường gọi của Điện Ngọc Hoàng, tên chữ là Phước Hải Tự (người Pháp thì gọi là chùa Đa Kao); hiện tọa lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi chùa vốn là điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế do một người tên Lưu Minh (pháp danh là Lưu Đạo Nguyên, người Quảng Đông, Trung Quốc) xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20. Năm 1982, Hòa thượng Thích Vĩnh Khương đến tiếp quản điện thờ. Kể từ đó điện thờ này thuộc về Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đến năm 1984, thì điện Ngọc Hoàng được đổi tên là "Phước Hải Tự". Chùa Ngọc Hoàng là một ngôi chùa cổ, làm theo kiểu đền chùa Trung Hoa với mô típ trang trí rực rỡ. Chùa xây gạch, mái lợp ngói âm dương, trang trí bờ nóc, góc mái bằng nhiều tượng gốm màu. Trong chùa có nhiều tác phẩm nghệ thuật: tranh thờ, tượng thờ, bao lam, liễn đối, hương án... bằng các chất liệu: gỗ, gốm, giấy bồi. Khuôn viên chùa rộng khoảng 2.300 m2. Phía trước có ngôi miếu nhỏ đặt tượng Hộ pháp. Cổng tam quan nổi bật với những đường nét uốn lượn hình sóng nước của hai con rồng theo tư thế "tranh châu". Chính điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Huyền Thiên Bắc Đế với các thiên binh, thiên tướng. Có phối thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và một số thần linh quen thuộc trong tín ngưỡng của người Hoa như: thần Thiên Lôi, thần Môn Quan (thần giữ cửa), thần Thổ Địa (thần đất đai), thần Táo Quân (thần lò bếp), thần Hà Bá (thần sông nước), Văn Xương và thần Lã Động Tân (thần văn chương), Thái Tuế (sao giải hạn), Lỗ Ban (thầy dạy nghề), Nữ Oa Thánh Mẫu, 12 bà mụ, 13 đức thầy...Ngoài ra, chùa còn thờ thần Thành hoàng...Nhìn chung, các pho tượng thờ trong điện thờ đều là những tác phẩm điêu khắc gỗ đẹp. Hàng ngày khách trong và ngoài nước đến chiêm bái chùa rất đông. Lễ hội lớn nhất là Vía Ngọc Hoàng diễn ra ngày 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm, tương truyền là ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế. Ngày 15 tháng 10 năm 1994, chùa Ngọc Hoàng được công nhận là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2143 lượt xem
Chùa Sắc từ Trường Thọ là ngôi chùa cổ thuộc dòng Lâm Tế, được kiến tạo vào năm 1720 với tên gọi Chùa Vĩnh Trường tọa lạc thôn Hòa Mỹ thuộc Tổng Bình Trị - Huyện Bình Dương – Phủ Tân Bình – Thành Gia Định. Trải qua bao năm tháng thăng trầm của lịch sử vẫn trường tồn cùng đất nước, ngôi cổ tự Vĩnh Trường khẳng định vị trí của mình trên đất Gia Định với 2 lần Sắc phong: Năm Canh Tuất (1802), Vua Gia Long Sắc phong “Sắc tứ Pháp Vũ tự”; Năm Canh Ngọ (1870), Vua Tự Đức Sắc phong “Sắc tứ Trường Thọ”. Năm 2000, Chùa được Bộ văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Chùa đã trải qua 7 đời Chư vị Tổ sư tiền bối. Hiện nay, Đại đức Thích Huệ Quang đương nhiệm trụ trì (chính thức được bổ nhiệm từ năm 2013), luôn tích cực cùng chư tăng và bổn tự tham gia các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp tăng độ chúng và thường xuyên vận động tổ chức các hoạt động thiện nguyện, sống tốt đời đẹp đạo, cùng góp sức xây dựng địa phương an lạc, phồn vinh. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2093 lượt xem
Đình thần Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh) từ lâu đã nổi tiếng là ngôi đình lâu đời nhất không chỉ ở Sài thành mà cả vùng đất phương Nam. Đình Thông Tây Hội được xây dựng khoảng năm 1698, đến nay có tuổi đời hơn 300 năm. Đình thờ Thành Hoàng theo tục thờ thần của người Việt Nam. Vị thần chính được thờ trong đình là Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương là Hoàng tử con vua Lý Thái Tổ. Đình Thông Tây Hội, trước năm 1944 có tên đình làng Hạnh Thông Tây là một ngôi đình cổ ở quận Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm 1679, ngày nay được biết tới như là ngôi đình cổ nhất của vùng đất Gia Định xưa và của cả miền đất phương Nam còn tồn tại. Đình Thông Tây Hội là ngôi đình có cấu trúc thuộc dạng đình cổ ở miền Nam thế kỷ 19. Đình hiện vẫn gìn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc và vật liệu xây dựng của ngôi đình cổ. Toàn bộ khu đình tọa lạc trên một khu đất rộng 5.188m2. Do bị dân lấn chiếm một phần đất để ở nên hiện nay chỉ còn khoảng 1.500m2. Đình quay về hướng Đông. Cổng đình xây theo kiểu tam quan. Sân Đình rộng, có một số cây cao khoảng 10m. Mặt bằng kiến trúc của đình tạo thành hai trục song song với nhau: một trục dài (trục chính) gồm võ ca, chánh điện; một trục ngắn (trục phụ) là nhà hội sở. Kiểu mặt bằng kiến trúc này rất phổ biến đối với công trình kiến trúc tôn giáo ở miền Nam thế kỷ thứ 18 - 19. Võ ca có kích thước: ngang 14m, sâu 17,5m, cao 4m là nơi xây chầu, hát bội gồm 7 nếp nhà và 52 cột gỗ, không có tường bao xung quanh. Chánh điện gồm: 2 nếp nhà ghép trùng nhau theo kiểu "trùng thiềm điệp ốc". Mái của hai nếp nhà cạnh sát nhau. Tất cả có 48 cột, chia thành 8 dãy cột, mỗi dãy có 6 cột. Bốn cột giữa cao nhất là 4,5m; có đường kính là 30 cm (thường được gọi là "tứ tượng") là nơi quan trọng nhất, linh thiêng nhất - nơi đặt bàn thờ các vị thần. Các chân cột ở chánh điện được có khắc hình lăng trụ thắt ở giữa. Trên nóc chánh điện có tượng lưỡng long tranh châu bằng gốm men xanh, quanh chánh điện có tường gạch. Nhà hội sở là văn phòng ban trị sự, nơi tiếp khách và chuẩn bị tế lễ, có kích thước ngang 12m, dài 19m, cao 4,2m; có 56 cột, chân cột kê đá xanh, có 3 nếp nhà "trùng thiềm điệp ốc"; có vách ván ngăn phòng làm việc với nhà kho. Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, bộ vì kèo chịu lực bằng gỗ, nền lót gạch tàu (30 cm x 30 cm). Trang trí của đình Thông Tây Hội, phần đặc sắc nhất tập trung tại chánh điện. Ở đây các đầu kèo, trính đều được chạm khắc đầu rồng và cành mai. Có 3 bao lam: bao lam ở giữa chạm theo đề tài lân - ly - quy - phụng, hai bao lam hai bên chạm theo đề tài mẫu đơn - trĩ. Tác phẩm chạm khắc đặc sắc nhất là trang thờ thần, được chạm khắc tinh xảo theo đề tài lưỡng long triều nguyệt và lân - ly - quy - phụng. Ngoài ra còn có hai trang thờ tả ban, bức hoành "chung linh lưu tú", hai cặp câu đối bằng thân cây dừa ở chánh điện đều là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Trong di tích đình Thông Tây Hội còn giữ 37 hiện vật quý. Các hiện vật là tác phẩm chạm khắc nghệ thuật như bao lam, hoành phi, câu đối, trang thờ đều giữ được đường nét, màu sắc sơn son thếp vàng của hiện vật cổ, không bị phết lên những lớp son mới như một số ngôi đình khác thường làm. Với giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, xã hội, đình được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2313 lượt xem
Tả quân Lê Văn Duyệt sinh ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (1764), tại thôn Long Hưng, Tổng Kiến Hưng, Định Tường. Tả quân Lê Văn Duyệt quê gốc tại làng Bồ Đề, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đến đời ông nội là Lê Văn Hiếu vào Nam sinh sống tại làng Hòa Khánh, tỉnh Định Tường. Năm 1765, cha là Lê Văn Toại đưa gia đình đến sống tại Rạch Gầm, tổng Long Hưng, Mỹ Tho (nay là xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Thuở nhỏ Ông sống cùng cha mẹ, phụ giúp việc nông gia, lúc rảnh rỗi thì tập luyện võ với bạn bè. Ông có tư chất thông minh, lanh lẹ, có sức khỏe hơn người, thích võ nghệ hơn văn chương; rất thích chơi chọi gà và xem hát bội. Năm 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã sớm bộc lộ ý chí “Sinh ở đời loạn, không hay dụng cờ trống Đại Tướng, chép công danh vào sách sử không phải là trượng phu”. Trong cuộc đời làm quan Ông rất mực thanh liêm, cương trực, thưởng, phạt nghiêm minh, lấy đức an dân, lấy dân làm gốc, có ý thức kết hợp kinh tế với quốc phòng, mở rộng giao thông thương mại làm cho nền kinh tế cả miền thịnh vượng, đoàn kết các dân tộc và tôn giáo, tận tình giúp đỡ lương dân khi gặp hoạn nạn nên nhân dân và các nước lân bang rất kính nể. Có công lao lớn trong việc khai phá, mở rộng và phát triển vùng đất Nam bộ. Năm Canh Tý (1780), theo phò Chúa Nguyễn Ánh được tuyển vào làm Thái giám Nội đình, sau đó được phong làm Thuộc Nội Vệ Úy, Ông 2 lần hộ giá Chúa Nguyễn chạy nạn ra Phú Quốc và sang Xiêm. Năm Canh Thân và Tân Dậu (1800 – 1801): Ông lập được nhiều chiến công, đặc biệt là thu phục thành Qui Nhơn (Bình Định) và thắng lớn ở cửa Bể Đầm Thị Nại. Năm 1802, Ông được phong tước Quận Công (hàng chánh nhất phẩm), chức Khâm Sai Chưởng Tả Dinh Bình Tây Đại Tướng Quân. Ông hai lần làm Tổng trấn thành Gia Định (các giai đoạn 1812 - 1816 và 1820 - 1832), Tả quân Lê Văn Duyệt đã có công lớn giúp an định và phát triển vùng đất phương Nam, đặc biệt để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người dân Nam bộ, được truyền đời đến nay, là những cải cách khai mở, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống người dân và bài trừ tham nhũng. Sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập lăng miếu thờ, nay gọi là Lăng Lê Văn Duyệt hay còn gọi là Lăng Ông Bà Chiểu. Hằng năm ngày 30/7 đến ngày 1/8 âm lịch là Lễ giỗ Đức thượng công Tả quân Lê Văn Duyệt nhằm ghi nhớ công lao vị quan thanh liêm đã chăm lo tốt đời sống nhân dân. Lăng Ông rộng 18.501 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con đường: Lê Văn Duyệt, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng. Trước năm 1975, cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa. Khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng Tam quan ở phía nam vào qua một khu vườn cảnh là: Nhà bia nơi đặt bia đá ghi công đức Tả quân Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao quanh Miếu thờ Với những giá trị đó , ngày 6 tháng 12 năm 1989, toàn bộ khu lăng được Bộ Văn hóa công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2475 lượt xem
Địa đạo Phú Thọ Hòa là địa đạo đầu tiên ở phía Tây Sài Gòn (xây dựng vào năm 1947, trước Địa đạo Củ Chi), được đào trong những năm kháng chiến chống Pháp và được duy trì cho đến hơn mười năm đánh Mỹ, nằm lọt giữa nhiều đồn bốt dày đặc của kẻ thù, nhưng là vùng đất quân sự có nhiều chiến lũy phòng thủ chống quân xâm lược (Lũy Ông Dầm, Lũy Bán Bích, Lũy Chí Hòa,…), nơi có nhiều phong trào yêu nước (“Thiên địa hội”, “Hội kín Nguyễn An Ninh”,….) đã góp phần vào những chiến công vang dội trong suốt chặng đường kháng chiến chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta như là chặn đánh địch suốt 6 ngày đêm tại cầu Tham Lương (tháng 10/1945), trận chống càn ở Gò Đậu - Bình Long (năm 1948), trận đánh kho bom Bảy Hiền (ngày 29/3/1948), nhiều lần đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất (tháng 12/1949), tấn công vào kho bom Phú Thọ (năm 1952 và 1954), làm tiêu hao nhiều lực lượng của địch ở trận tiêu diệt đồn Phú Thọ Hoà, đồn Phạm Văn Tụng (đêm 31/5 rạng sáng ngày 01/6/1954),... hỗ trợ cho chiến trường Điện Biên Phủ, gây được tiếng vang trong nước và trên thế giới. Ngày nay, Địa đạo Phú Thọ Hòa là Khu di tích lịch sử để Nhân dân và bạn bè quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, khám phá, học, nghiên cứu lịch sử kháng chiến chống giặc và là một trong những điểm đến du lịch nổi bật của quận Tân Phú. Địa chỉ số 139 đường Phú Thọ Hòa, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa đạo Phú Thọ Hòa đầu tiên chỉ là những chiếc hầm ếch (chỉ vừa một người chui, loại hầm ngõ cụt khó thoát), sau dần cải tiến thành đường hầm xe lửa 2 ngăn và tiếp tục phát triển thành hệ thống địa đạo liên xã kéo dài trên 10 cây số. Địa đạo có 2 tầng được đào sâu dưới lòng đất những 3 đến 4 mét; có 3 hầm đào rộng ra, để có thể ngồi đến 7 người hoặc chứa lương thực, vũ khí; lòng địa đạo cao 1 mét, rộng 0,6 đến 0,8 mét, dài gần 700 mét, hai bên có nhiều ngách đi sang nhiều hướng khác nhau. Gọi hầm xe lửa vì cứ khoảng 20 mét thì có 1 vách ngăn, ở giữa có khoét 1 lỗ đường kính 0,5 mét, vừa một người chui qua (hình thức này tương tự như từng toa xe lửa) và cứ thế nối tiếp nhau đi từ ấp này sang ấp khác, cách bố trí vách ngăn này để phòng ngừa khi địch phát hiện hầm địa đạo thì ta chui qua hầm kế tiếp rồi bít cửa lại, ngụy trang cẩn thận để địch tưởng đây là đường cùng, hết lối. Cách thức đào hầm từ 2 điểm ở đầu, hai tổ đào thẳng về điểm trung tâm. Điều đặc biệt thú vị là từ 2 đầu làm sao mà định hướng cho đúng để đào cho đúng đến điểm trung tâm mà cái thời không hề có công nghệ định hướng hỗ trợ. Đây là câu trả lời về cách vô cùng sáng tạo của cha ông ta để định hướng chính xác như sau: người ngồi sau cầm đèn để ở một khoảng cách nhất định mà rọi bóng người ngồi trước lên vách. Người ngồi trước cầm cuốc, cuốc vào cái bóng của mình, bao giờ bóng ngay thẳng tròn trịa là lòng hầm đúng ni tấc và phương hướng. Ngoài ra, cũng còn phối hợp kiểm tra trên bề mặt đất, người ở trên áp tai vào mặt đất, người ở dưới vỗ mạnh vào trần hầm sao cho trên dưới đều nghe rõ ám hiệu là được. Địa đạo Phú Thọ Hòa nằm trọn vẹn trong đất của dân, đã được phục chế, tôn tạo, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận là “Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia” tại Quyết định số 1460-Quyết Định /Văn Hóa ngày 28/6/1996 và được xây dựng, chỉnh trang, nâng cấp khang trang, sạch đẹp như lời Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khi còn là Bí thư Thành ủy Hồ Chí Minh) đã chỉ đạo khôi phục lại khu di tích này, để giáo dục cho thế hệ trẻ: “Làm lại tất cả các di tích này cốt không chỉ để ca ngợi những cái đã qua, mà chính là để truyền lại tinh thần đoàn kết yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng cho thế hệ thanh niên ở thành phố chúng ta, đất nước chúng ta. Nguồn Trang thông tin điện tử quận Tân Phú , thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2366 lượt xem
Tọa lạc ở địa chỉ số 565 đường Lạc Long Quân, phường 10, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. “Chùa ở trên gò Cẩm Sơn, cách phía Tây lũy Bán bích ba dặm...Cây cao như rừng, hoa nở tựa gấm, sáng chiều mây khói nổi bay quanh quất, địa thế tua nhỏ mà nhã thú...” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí). Chùa Giác Lâm được xem là tổ đình của phái Lâm Tế, thiền sư Viên Quang (đời thứ 36) là vị trụ trì đầu tiên. Chùa được xây dựng từ năm 1744, từ đó đến nay dù đã trải qua 4 lần trùng tu lớn vào các năm 1798 – 1804, 1900 – 1909, 1939 – 1945, 1992 – 1994, tuy nhiên đến nay hệ thống cổ vật vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Bửu Pháp Xá Lợi cao bảy tầng thờ viên ngọc Xá Lợi Phật được đại đức Narada từ Sri-Lanka tặng cho Giáo hội Phật giáo cổ truyền là địa điểm thu hút nhiều du khách. Vườn chùa có 38 tháp thờ các vị tăng sĩ và khu tháp các vị tổ của chùa. Rảo bước vào bên trong, ngôi chánh điện nép mình khiêm tốn dưới hàng cây cổ thụ xanh mát. Mang phong cách kiến trúc chữ tam truyền thống của chùa cổ Nam Bộ, chùa Giác Lâm gồm ba dãy nhà ngang nối liền nhau gồm chính điện, giảng đường và nhà trai, mái chùa dạng bánh ít đặc trưng, trên đỉnh mái là hình ảnh “lưỡng long tranh châu” quen thuộc trong văn hóa Việt Nam. Mái ngói, màu tường nâu vàng trầm ấm cùng các họa tiết sành sứ được trang trí cực kì tỉ mỉ và điêu luyện. Với hơn 7.000 đĩa trang trí, chùa Giác Lâm hiện sở hữu kỷ lục ngôi chùa có số lượng đĩa kiểu trang trí nhiều nhất Việt Nam. Chính điện bài trí 113 pho tượng cổ bằng gỗ mít, 5 pho tượng bằng đồng, 86 câu đối chữ Hán được chạm khắc vô cùng sống động, tinh xảo, thể hiện sự tài hoa đáng ngưỡng mộ của các nghệ nhân xưa. 2 bộ tượng La Hán bằng gỗ thếp vàng, bộ nhỏ có niên đại thế kỷ 18,19 với trang phục nhà Phật giản dị, ánh mắt vô ưu, cử chỉ thân thiện và khuôn miệng như chuẩn bị nở nụ cười, tạo cho du khách cảm giác gần gũi như đang đứng trước những con người Nam Bộ thân quen bình dị mà ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc sống đời thường. Hệ thống bao lam, hoành phi, phù điêu, câu đối, liễn...được thếp vàng, chạm khắc tinh xảo, trang trí thêm các đường viền hoa lá, kỉ hà với các biểu tượng phong phú tiêu biểu cho văn hóa Nam Bộ và chủ đề quen thuộc trong Phật giáo như “lưỡng long triều nguyệt”, “lưỡng long tranh châu”, các đề tài thực vật, động vật thân thuộc: tùng hạc, trúc tước, mai điểu, cúc điệp, sóc nho, mai, lan cúc, trúc, trái bí, trái bầu, trái mãng cầu… Một số môtip có cẩn ốc xà cừ, ô hộc thể hiện phong cách nghệ thuật triều Nguyễn. Trải qua thời gian của chiều dài lịch sử, với những giá trị văn hóa đặc sắc, Chùa Giác Lâm được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2219 lượt xem
Phan Châu Trinh là nhà cách mạng xã hội có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Ông đã để lại nhiều bài học lớn cho thế hệ hôm nay. Phan Châu Trinh, hiệu là Phan Tây Hồ, sinh ngày 09/9/1872 tại huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình quan võ triều Nguyễn. Thân sinh ông từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông từ quan, tham gia hoạt động cứu nước. Ông kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905 và 1911, Phan Châu Trinh sang Nhật Bản rồi sang Pháp để học hỏi, tìm con đường thoát khỏi ách cai trị của người Pháp. Nhà yêu nước Phan Châu Trinh hoạt động tích cực, sôi nổi trong phong trào Duy Tân giai đoạn đầu thế kỷ XX, ông chọn con đường dấn thân đấu tranh nhưng ôn hòa, bất bạo động, coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng pháp luật, cai trị quy củ có thể quét sách hủ bại phong kiến. Các năm 1906, 1919 và 1920, Phan Châu Trinh ba lần gửi một bức thư yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi chính sách cai trị ở Việt Nam và Đông Dương. Năm 1908, ông bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Giữa năm 1910 ông được thả và về an trí ở Mỹ Tho. Tháng 4 năm 1911, ông xuống tàu sang Pháp, tiếp tục đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, gióng lên tiếng nói tố cáo chế độ thuộc địa, đánh động dư luận Pháp. Tại đây, ông lại bị Pháp bắt giam lần thứ 2 trong 10 tháng, từ tháng 9 năm 1914 đến tháng 7 năm 1915. Ngày 16/7/1915, Phan Châu Trinh được tuyên bố trắng án và trả tự do. Sau đó, ông chuyển sang tiếp tục hoạt động bí mật trong các nhóm Việt kiều yêu nước, thích nghi với hoàn cảnh mới tại Pháp. Sau 14 năm, ngày 26/6/1925 Phan Châu Trinh về đến Tổ quốc, với mục tiêu và khẩu hiệu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. “Khai dân trí” là: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.“Chấn dân khí” là: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. “Hậu dân sinh” là: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Ông công bố chủ trương đường lối "Trước tiên cần phát triển giáo dục, nâng cao trình độ nhân dân về ý thức dân chủ tự cường và phát triển xã hội, kinh tế" với mục tiêu cuối cùng là giành lại độc lập dân tộc. Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Ngày 24/3/1926 ông qua đời, trên miệng còn kịp mỉm cười chào người bạn tâm giao Huỳnh Thúc Kháng và lời trăn trối "Độc lập dân tộc sở cậy Nguyễn Ái Quốc". Di tích khu lưu niệm mộ Cụ Phan Châu Trinh mang giá trị văn hóa lịch sử của giai đoạn đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp trước khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, góp phần tô thắm thêm trang sử vàng truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam. Là chứng cứ lịch sử giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào về tấm gương cách mạng sáng ngời của bậc tiền nhân cho các thế hệ chúng ta noi theo. Bia mộ của Người là công trình công phu, ghi lại thân thế và sự nghiệp của Người do Huỳnh Thúc Kháng soạn thảo. Ngoài ra, khu lưu niệm còn trưng bày lưu giữ những hiện vật, bút tích trong quá trình hoạt động cách mạng của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh. Với những giá trị quý báu trên, ngày 12/12/1994 nơi an nghỉ của Người đã vinh dự được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Vào ngày 24/3 hằng năm, Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và nhân dân quận Tân Bình tụ họp về đây trang trọng tổ chức Lễ tưởng niệm nhà chí sỹ yêu nước, một đời nặng nợ với mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất nhà chí sỹ yêu nước Phan Châu Trinh trở thành hoạt động thường niên của Quận. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2389 lượt xem
Khu vực gò đất cao từ Bà Chiểu tới Phú Nhuận là nơi có nhiều lăng mộ của các công thần thời Trung Hưng nhà Nguyễn, từ Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt, Phan Tấn Huỳnh, Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu tới các vị tướng như Võ Tánh, Võ Di Nguy; những người này tuy không sinh ra ở Gia Định nhưng sự nghiệp lại gắn liền với vùng đất này. Lăng Võ Di Nguy với kiểu kiến trúc chỉ dành cho bậc đại công thần được chia làm hai khu: khu đền thờ phía trước và khu mộ phía sau. Ngôi mộ được xây bằng hợp chất cổ và được coi là tiêu biểu cho nghệ thuật xây cất lăng mộ dành cho các công thần ở Nam bộ. Với kiến trúc gồm bình phong trước, bình phong sau, vòng tường bao xung quanh cùng các trụ cột là những thành phần che chắn, bảo vệ cho phần mộ ở giữa. Mộ được xây dựng có dạng hình chữ nhật vuông xung quanh khắc các đường trang trí và hình tượng “dây lá hóa rồng” đang bay lượn. Toàn bộ khu mộ được đắp nổi nhiều hình tượng và trang trí nhiều mô típ hoa văn độc đáo, sống động: búp sen, kỳ lân, rồng, hổ, rái cá; tùng lộc, lộc bình, hoa điểu, hoa cúc dây… cùng nhiều bài thơ ghi công đức của ông và phu nhân. Đền thờ có từ khi xây cất xong khu mộ, kiến trúc hiện nay của khu đền thờ là kiến trúc được xây dựng lại trong đợt trùng tu vào năm 1972; với kiến trúc chính điện là ngôi nhà tứ trụ truyền thống Nam bộ cùng hai dãy nhà phía Đông và phía Tây hai bên. Bên trong, tại Chính điện có bàn thờ Hội đồng ở giữa, phía trong là các án thờ Võ Di Nguy và người cháu ruột là Võ Di Thái được phong tước Bình Giang Bá, riêng án thờ Võ Di Nguy có bài vị khắc chữ Thần thếp vàng. Trong chính điện còn treo các bức hoành phi, liễn đối bằng chữ Nho thể hiện công trang của Võ Di Nguy. Đền thờ và mộ Võ Di Nguy là một công trình kiến trúc nghệ thuật có liên quan tới nhân vật lịch sử thời chúa Nguyễn. Đây là kiến trúc lăng mộ có tính chất uy nghi, độc đáo vào bậc nhất của các công thần thời Nguyễn ở Nam bộ. Công chúng tới đây có thể nhận thấy nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội của con người trong quá khứ một thời ở đất Gia Định xưa. Lăng Võ Di Nguy được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 43-Văn Hóa /Quyết Định ngày 07 tháng 01 năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2233 lượt xem
Lăng Trương Tấn Bửu là nơi yên nghỉ của Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu, một danh tướng của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng tại ấp Phú Thành, xã Phú Nhuận, tỉnh Gia Định nên còn được gọi là lăng Phú Thành, hội quí tế lo việc cúng tế, trông coi lăng mang tên Hội Phú Thành. Trương Tấn Bửu là một trong năm vị tướng nổi danh của thành Gia Định (gồm Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức, Trương Tấn Bửu). Ông theo phò Nguyễn Ánh từ năm 1787, giữ nhiều trọng trách trong quân đội, được phong tước hiệu là Long Vân Hầu. Năm 1808, vua Gia Long phân định lại bờ cõi, đổi “Gia Định trấn” thành “Gia Định thành” bao gồm Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, và Hà Tiên. Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành là Nguyễn Văn Nhân, Phó Tổng trấn là Trương Tấn Bửu. Từ đây đến cuối đời ông giữ nhiều trọng trách: Tổng trấn Gia Định thành; Tổng trấn Bắc thành; Phó Tổng trấn Gia Định thành dưới quyền Tổng trấn Lê Văn Duyệt; Tiền quân Phó tướng; Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng; trông coi xây dựng Thái miếu; đắp thành Châu Đốc; đào kênh Vĩnh Tế…Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Ông mất năm 1827, vua Minh Mạng ban cho hai ngàn quan tiền và năm cây gấm tống cẩm để giúp làm việc tang lễ. Đích thân tả quân Lê Văn Duyệt coi lo việc chôn cất Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu và xin cấp tự điền (ruộng đất để thờ tự) và người giữ mộ. Lăng Trương Tấn Bửu gồm ngôi mộ và một đền thờ trong khuôn viên rộng hơn 2300m2 có tường rào bao bọc. Mộ Trương Tấn Bửu dài hơn 3m, chiều ngang khoảng 2m, cao hơn 2m. được xây bằng ô dước (hợp chất gồm vôi, cát giấy do, than hoạt tính, mật đường). Cách xa mộ gần 2m có tường thành bao thành hình chữ nhật (được gọi là khuông thành). Tường được xây bằng ô dước và gạch thức (gạch có đóng dấu). Đầu mộ, cuối mộ có xây bình phong. Trên khuông thành và binh phong trang trí hình kỳ lân, búp sen, phù điêu hình cây tùng và chin hạc, các cặp liễn đối. Bên phải ngôi mộ là đền thờ Trương Tấn Bửu. Đền thờ gồm có tiền điện và chính điện. Tiền điện được xây theo dạng nhà tứ trụ, vì kèo bằng gỗ, mái lợp ngói ống (ngói âm dương tiểu đại). Chính điện cũng có dạng nhà tứ trụ nhưng được xây bằng bê-tông, tường gạch, mái lợp tôn xi măng. Khám thờ Trương Tấn Bửu được đặt ở chính điện, hai bên có bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Năm 1943, với sự đóng góp của Hội Thượng công quí tế lăng Lê Văn Duyệt, Hội Phú Thành đã trùng tu đền thờ. Năm 1959, Hội Phú Thành xây một hội quán bên phải đền thờ. Lăng Trương Tấn Bửu là công trình tiêu biểu của kiến trúc lăng mộ đầu thế kỉ 19 ở Gia Định, do đích thân Lê Văn Duyệt đốc xuất xây dựng làm nơi yên nghỉ cho một vị tướng tài, có công bình định an dân ở miền Nam, dẹp nạn thổ phỉ ở miền Bắc. Trước Cách mạng tháng Tám và trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, lăng Trương Tấn Bửu là cơ sở của đội Cảm tử quân Phú Nhuận. Lăng Trương Tấn Bửu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 101/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 15 tháng 12 năm 2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2180 lượt xem
Đình Phú Nhuận được xây dựng khoảng năm 1818 ở xóm Kinh, sát kinh Nhiêu Lộc, đến năm 1852 được xây lại trên địa điểm hiện nay. Ngày 29 tháng 11 năm Nhâm Tý (tức ngày 08 tháng 01 năm 1853), vua Tự Đức đã ban sắc phong cho Thần Thành Hoàng của đình. Đình trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1930, 1966, 1989 và 1998, nhưng vẫn giữ được nét độc đáo kiến trúc cổ của đình Nam bộ thế kỷ 19. Từ cổng đình bước vào, ta gặp miếu “Nhị Vị Công Tử” thờ hai người con trai của nữ thần Po Nagar của người Chăm ở bên phải; miếu thờ “Ngũ Hành Nương Nương” bên trái. Mặt tiền là bức bình phong đắp nổi hình Bạch Hổ. Phía sau bức bình phong là dấu vết bệ thờ Thần Nông. Nhìn tổng thể, đình có hình L ngược, có hai trục: trục chính nằm ở phía bên phải (tính từ trong ra ngoài), nhà võ ca, võ quy, chính diện. Trục phụ gồm: sân đình, nhà thảo bạt, nhà túc, sân thiên tỉnh, nhà bếp và nhà kho. Mái đình thẳng lợp ngói âm dương, trên đỉnh có trang trí “ lưỡng long tranh châu” bằng gốm. Bên trong đình có bộ cột và vì kèo làm bằng gỗ, cấu trúc theo kiểu kẻ chuyền. Chính diện xây theo kiểu nhà tứ tượng, hình vuông (một gian hai chái) với cột gỗ, kèo gỗ, trạm hình đuôi rồng, được xây dựng năm 1920. Các bàn thờ được xếp thành ba dãy, dãy giữa gồm các bàn thờ Thần, hai bên là bàn thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ Thần bằng gỗ chạm hoa văn “lưỡng long triều nguyệt”, trên đặt sắc Thần do vua Tự Đức ban cho vị Thần Thành Hoàng của đình Phú Nhuận đựng trong chiếc hộp. Trên bàn thờ Thần ở chính điện có lư hương bằng gốm cổ, men xanh lam và một lư hương bằng đồng. Chính điện có bốn cặp câu đối và ba bức hoành phi được chạm khắc tinh sảo. Đặc biệt có cặp câu đối cổ viết bằng chữ Hán “Hộ quốc tý dân” (dịch là: Giúp nước cứu dân) niên đại 1860, và “Hộ quốc bảo dân” (dịch là: Giúp nước bảo vệ dân) niên đại 1901. Ngoài ra, đình còn lưu giữ 33 hiện vật và sắc phong của vua Tự Đức nói trên. Đình Phú Nhuận thờ Thần Thành Hoàng theo tục thờ Thần của người Việt. Ngày lễ lớn nhất của đình Phú Nhuận là lễ Kỳ Yên, được tổ chức vào ngày 16, 17, 18 tháng Giêng. Lễ vật chính cúng Thần là con heo đen. Ngày 16 tháng Giêng là ngày lễ chính. Đình Phú Nhuận được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3744/Quyết Định -Văn Hóa Thông Tin ngày 29 tháng 01 năm 1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh.
TP Hồ Chí Minh 2040 lượt xem