Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập Khu rừng cấm Nam Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên và Khu Bảo tồn tê giác Cát Lộc, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng. Diện tích khu vực trung tâm của vườn là 71.920 ha, trong đó, 39.627ha thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước. Vườn Quốc gia Cát Tiên là khu vực hiện bảo tồn được nhiều loại động, thực vật quý hiếm; là vùng quan trọng để duy trì hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng - môi trường sống duy nhất (hiện còn) của loài tê giác một sừng ở Việt Nam, khu vực Đông Dương cũng như trên thế giới. Độ che phủ của rừng tự nhiên trong khu vực này lên tới 80%, với hệ sinh thái đa dạng: rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và ngập nước. Địa hình tự nhiên xen kẽ các bàu, đầm, suối, cộng với hơn 90km sông Đồng Nai đã tạo nên cảnh quan đặc trưng cho vườn Cát Tiên, với những ghềnh, thác, các khu đất ngập nước và bán ngập nước,... Những dấu tích về địa chất, địa mạo minh chứng cho quá trình biến đổi của thiên nhiên ở khu vực này hàng triệu năm trước. Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, đã được UNESCO ghi danh. Theo số liệu thống kê, trong Vườn Quốc gia Cát tiên có 1.610 loài thực vật và 1.568 loài động vật. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN, 2008). Đặc biệt, có 3 loài và phân loài thuộc đặc hữu của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong là chà vá chân đen, tê giác một sừng Việt Nam và hoẵng Nam Bộ. Vườn Quốc gia Cát Tiên đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1997. Trong khu vực Cát Tiên có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp, như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng, thác Mỏ vẹt, thác Nơkrót - Nơkrót... Một trong số những hệ sinh thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Sông Đồng Nai, có diện tích lưu vực là 40.800 km2; đoạn chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km. Suối Đắc Lua dài khoảng 20 km, gom nước từ các bàu ra sông. Bàu Sấu là bàu lớn nhất, có diện tích mặt là 92,63 ha. Trong bàu có khoảng 100 cá thể cá Sấu Xiêm. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của loài cá lăng nổi tiếng. Bàu Cá là hồ nước tự nhiên, có diện tích mặt nước 74,3 ha. Bàu Bèo có diện tích 23,92 ha. Xung quanh bàu được bao bọc bởi nhiều cây gỗ lớn... Trong khu vực Cát Tiên còn có diện tích đồng cỏ khá rộng, nơi bảo tồn các loài thú lớn quý hiếm (bò tót, hoẵng), được bảo vệ tốt, hầu như không có tác động của con người. Về hệ thực vật của khu vực Cát Tiên: Nổi bật là rừng thường xanh lá rộng, với diện tích 17.819 ha, nơi có các loài thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, như dầu rái, dầu lông,... cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai, gõ, giáng hương,... và các loài gỗ lớn...; rừng thường xanh nửa rụng lá có diện tích 5.097 ha, gồm những loài cây gỗ rụng lá vào mùa khô, như bằng lăng ổi, râm,…, các loài cây gỗ lớn rụng lá và hồi lại vào mùa mưa; rừng cây gỗ xen tre nứa có diện tích 14.361 ha...; rừng tre nứa thuần loại có diện tích 29.805 ha, được hình thành dưới tác động của con người, với các loài tre Lồ Ô, mum, tre gai (la ngà); thảm thực vật ngập nước và bán ngập nước có diện tích 3.516 ha, phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm khu vực Nam Cát Tiên. Các dấu tích khảo cổ học cho thấy, trong khu vực này đã từng tồn tại một nền văn hóa cổ. Trong lịch sử, khu vực Cát Tiên và vùng phụ cận là không gian cư trú của nhiều dân tộc thiểu số: Mạ, Chơro, S’Tiêng, Mnông, Tày, Nùng, H'mông, Dao, Hoa, Mường, Ê đê,… Các dân tộc này hiện còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội đặc sắc, như lễ hiến tế trâu của người S’Tiêng và Mạ, lễ hội Sayangva (Mừng lúa mới) của dân tộc Chơro, lễ mừng lúa mới của dân tộc S’Tiêng và Mnông... Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Vườn Quốc gia Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 27/9/2012). Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Lâm Đồng 2146 lượt xem
Nằm cách trung tâm huyện 10 km, hồ Đạ Tẻh hiện ra trong màu xanh bao trùm của rừng nhiệt đới nguyên sinh và dãy núi Con Ó hùng vĩ trập trùng. Năm 1990, hồ Đạ Tẻh được khởi công xây dựng. Buôn Con Ó của người Mạ nằm trong lòng hồ được di dời đến mảnh đất cao hơn ngay bên cạnh hồ. Con đập lớn nối 2 sườn núi đã ngăn dòng để những con nước không còn chảy miệt mài vô nghĩa mà tụ lại hợp lưu dâng lên thành hồ. Vào thời điểm đó, hồ Đạ Tẻh là công trình thủy lợi “3 nhất” của tỉnh Lâm Đồng: vốn đầu tư lớn nhất, công trình thủy lợi hoàn chỉnh nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Năm 1997, hồ Đạ Tẻh hoàn thành trở thành công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Mặt hồ có diện tích rộng hơn 100 ha trải dài đến gần 10 km, nơi rộng nhất 400 m, chứa 24 triệu mét khối nước, được bao phủ bởi núi rừng nguyên sinh. Hồ đã mang nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 2.300 ha đất nông nghiệp làm nên những cánh đồng xanh tươi, trù phú ở các xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Quảng Trị và thị trấn Đạ Tẻh, từng ngày làm cho vùng quê mới trở thành miền quê đáng sống, đưa huyện Đạ Tẻh trở thành huyện nông thôn mới năm 2020 là một trong 3 huyện đầu tiên của Lâm Đồng “về đích” nông thôn mới. Trong tiếng đồng bào Mạ (chủ nhân của vùng đất này), Đạ Tẻh có nghĩa là dòng nước nóng (Đạ: nước, Tẻh: nóng). Có lẽ, một vùng lòng chảo bị bao bọc, che chắn bởi núi đồi nên khí hậu ở đây nắng nóng, khô cháy, những dòng nước chảy qua đây cũng trở nên nóng hơn những nơi khác; vì thế mà cả vùng đất nắng bụi mưa bùn có tên là Đạ Tẻh. Không còn cái nóng khắc nghiệt nữa, dòng nước mát lành từ rừng nguyên sinh làm cho nước hồ ăm ắp quanh năm, vừa tưới tiêu cho mùa màng, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho Nhân dân trong huyện, hồ Đạ Tẻh còn góp phần cải tạo, làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan môi trường tự nhiên, điều hòa môi sinh, tỏa luồng hơi nước mát lành làm cho khí hậu dịu đi, giảm độ nóng cho cả một vùng lòng chảo. Năm 2004, hồ được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 1929 lượt xem
Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam. Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt. Sẽ thật đáng tiếc khi đến Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới Liêng Rơwoa (thác Voi) kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời. Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây. Năm 2001 thác Voi đã được công nhận là di tích - thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 1870 lượt xem
Thung lũng Tình Yêu là một trong những thắng cảnh thơ mộng nhất tại Đà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía bắc, thung lũng Tình Yêu có địa chỉ tại số 7 Mai Anh Đào, phường 8, thành phố Đà Lạt. Đó là nơi đập Đa Thiện quy tụ những dòng suối nhỏ chảy từ đồi núi cao, thành hồ Đa Thiện trong vắt uốn quanh thung lũng rợp bóng thông xanh. Vào những năm 1930, toàn quyền Đông Dương và các cặp tình nhân người Pháp thường chọn khung cảnh này cho những buổi hẹn hò, rồi đặt tên là Valleé d'Amour. Đến thời vua Bảo Đại, vùng này được gọi là Thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ - đã đề xuất đổi tên thành Thung lũng Tình Yêu. Thung lũng Tình Yêu đẹp và cuốn hút bởi thung lũng sâu và đồi thông quanh năm xanh biếc. Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng vắt ngang qua thung lũng tạo thành hồ Đa Thiện, làm tăng thêm sức quyến rũ cho cảnh quan chung, đồng thời xuất hiện thêm hai tên gọi khác bên cạnh Thung lũng Tình Yêu là đập 3 và hồ Đa Thiện 3. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây, Thung lũng Tình Yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa một bức tranh sinh động. Năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng 1856 lượt xem
Núi Lang Bian nằm trên địa bàn huyện Lạc Dương, cách trung tâm thành phố Đà Lạt 12km về phía bắc. Đây là địa điểm thích hợp cho các nhà dân tộc học, cho các du khách yêu văn hoá truyền thống đến nghiên cứu văn hoá của các dân tộc Nam Tây Nguyên. Núi Lang Bian còn được gọi là Núi Mẹ, gồm 2 ngọn, có độ cao 2.167m. Chuyện xưa kể rằng có một đôi trai tài gái sắc yêu nhau tha thiết - chàng K'lang và nàng Hơ Bian. Do lời nguyền thù hằn của hai bộ tộc mà hai người đã phải chia lìa. Nàng sau khi chết đã hóa thân thành dãy núi mà người dân tộc Hơ Ho-lạch gọi là Núi Mẹ và sữa từ bộ ngực của nàng đã tuôn tràn thành những dòng suối, dòng thác tươi mát cho đời. Từ đó hai ngọn núi được đặt tên là Lang Bian. Núi Lang Biang hay còn gọi là núi Bà với chiều cao 2.189m thuộc dãy Bidoup huyền thoại từ lâu đã trở thành điểm đến thường xuyên của du khách. Núi Langbiang còn nổi tiếng nhờ truyền thuyết gắn liền với lịch sử của người Cơ Ho bản địa về thiên tình sử nổi tiếng của chàng Lang và nàng Biang. Từ năm 2004, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận Lang Biang là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn Hóa , Thể thao và Du Lịch tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 1888 lượt xem
Thác Prenn là một thác nước ở thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thác Prenn nằm cạnh quốc lộ 20, ở cửa ngõ vào Thành Phố Đà Lạt là một trong những Khu Du Lịch sinh thái về rừng, suối. Thác ở chân đèo Prenn cách trung tâm Đà Lạt khoảng 10 km. Thác nằm trong khu rừng nguyên sinh còn sót lại. Dòng nước từ trên ghềnh đá với độ cao hơn 20m cao đổ xuống trắng xóa như một dải lụa bạch trông tựa mái tóc của nàng Bạch Mao Tiên cô. Có thể vì thế mà một số du khách gọi là thác Tiên Sa. Thác Prenn bắt nguồn từ suối Prenn, khởi nguồn từ khu vực hố Tôm, suối Bảo Đại (Thung lũng sau Dinh 1 – Đà Lạt). Suối Prenn còn được gọi là Đạ Prền và Thác Prenn còn có tên cổ là Liang Tarding. Đến thác Prenn, du khách có thể tham quan, vui chơi giải trí và lên thăm đền thờ Âu Lạc, đền thờ vua Hùng tại tỉnh Lâm Đồng. Truyền thuyết thác Prenn còn gắn liền với lịch sử phát triển của Vương triều Chăm ở thế kỷ XVII thuộc triều đại Pôrômê (1625 – 1651). Từ năm 1998, thác Prenn được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 1906 lượt xem
Di tích khảo cổ Cát Tiên là một quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có quy mô rất rộng lớn, trải dài khoảng 15km theo tả ngạn sông Đồng Nai từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn (huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng). Kết quả khai quật khảo cổ (từ năm 1994 - 2006) nhiều phế tích kiến trúc đền tháp, mộ tháp, nhà dài, hệ thống máng nước, đường đá cổ,… đã được phát lộ. Các kiến trúc ở đây có quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào công năng, có bình đồ vuông hoặc hình chữ nhật, cửa chính quay về hướng Đông. Quá trình khai quật đã tìm thấy hơn 1000 hiện vật gồm nhiều chất liệu như vàng, bạc, đồng, đá quý, gốm,… phong phú về loại hình như: ngẫu tượng Linga - Yoni, tượng thần Ganesa, thần Uma, nhẫn, hạt chuỗi, các lá vàng dập nổi hình của các vị thần, các linh vật Balamon giáo. Qua loại hình kiến trúc, hiện vật tìm được cho thấy đây là một thánh địa tôn giáo ảnh hưởng Ấn Độ giáo và là dấu tích của một nền văn hóa đặc sắc trong quá khứ. Di tích khảo cổ Cát Tiên là một phát hiện lớn của khảo cổ học Việt Nam cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Tư liệu khai quật khảo cổ cho thấy, văn hóa Cát Tiên có quá trình phát triển khá dài: Giai đoạn sớm vào khoảng thế kỷ thứ IV - VI và giai đoạn muộn có niên đại thế kỷ VII - 10 sau công nguyên. Đặc biệt quá trình phát triển của văn hóa Cát Tiên có mối quan hệ gần gũi với văn hóa Champa ở Nam Trung Bộ và văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo của đồng bằng Nam bộ Việt Nam. Theo ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong hội thảo khoa học Di tích khảo cổ Cát Tiên, (tháng 3 năm 2001) đã kết luận: “ Di tích này có nhiều yếu tố bản địa độc đáo (nội sinh) đồng thời cũng có nhiều yếu tố bên ngoài (ngoại sinh - exogenous). Các yếu tố ngoại sinh đã thấy từ phía Tây Nam là Chân Lạp và từ phía Đông Bắc là Champa, bao gồm cả về văn hóa hữu thể và vô thể. Có thể những yếu tố văn hóa hữu thể hơi nghiêng về Chân Lạp còn những yếu tố vô thể lại nghiêng về Champa. Do vậy, di tích này có tính “ĐỨNG GIỮA và NÓ là CHÍNH NÓ”. Di tích khảo cổ Cát Tiên nằm ở khoảng giữa tuyến đường tỉnh lộ 721 nối quốc lộ 20 (ngã ba Madagui - huyện Đahuoai - tỉnh Lâm Đồng) với quốc lộ 14 (ngã ba Sao Bọng - huyện Bù Đăng - tỉnh Bình Phước). Trung tâm di tích nằm ở bờ Bắc sông Đồng Nai sát với vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Tiên, cách Đà lạt khoảng 190km (về phía bắc) và Tp. Hồ Chí Minh khoảng 180km (về phía nam), đây là vị trí khá đắc địa trên bản đồ du lịch, rất thuận lợi cho các Tour du lịch từ Tp Hồ Chí Minh, Đà lạt và các tỉnh Tây Nguyên tới tham quan. Di tích khảo cổ Cát Tiên còn được mệnh danh là THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN, là nơi lưu giữ những bằng chứng của một nền văn hóa đặc sắc cách đây hơn 1000 năm lịch sử. Với hiện trường di tích rộng lớn và số lượng hiện vật phong phú, có giá trị đặc biệt như các lá vàng dập nổi hình các vị thần, vật linh Balamon giáo và sưu tập Linga - Yoni bằng vàng, đồng, đá, đá quý… trong đó có bộ ngẫu tượng Linga - Yoni khổng lồ được nhận định là lớn nhất Đông Nam Á (so sánh với các di tích cùng tích chất). Ngoài khu di tích khảo cổ Cát Tiên trên địa bàn huyện Cát Tiên du khách còn được tham quan Di tích Lịch sử kháng chiến Khu ủy khu VI và một số điểm sinh hoạt của Người Mạ, dân tộc bản địa lâu đời đã và đang sinh sống trên vùng đất huyền thoại này. Khu di tích khảo cổ Cát Tiên mang đậm dấu ấn văn hóa bản địa, nhưng vẫn thể hiện sự tiếp thu tinh hoa của những nền văn hóa khác trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại từ thế kỷ IV đến IX. Nơi đây gắn liền với một cộng đồng cư dân cổ có tổ chức, quy mô, với hệ thống kinh tế - xã hội thống nhất, chặt chẽ có trình độ phát triển cao (mà minh chứng thuyết phục nhất là sự xuất hiện chữ viết trên các mảnh vàng). Sự hình thành và phát triển của di tích đóng vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử của vùng Nam Tây Nguyên - Đông Nam Bộ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 31/12/2014) Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Lâm Đồng 1938 lượt xem
Núi lửa Nâm B’Lang (còn có tên gọi khác là Núi lửa Chư R’luh), thuộc địa phận xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Đây là núi lửa được tạo thành trong giai đoạn cuối của lịch sử phát triển địa chất - Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông. Đây là núi lửa duy nhất trong vùng Công Viên Địa Chất Đắk Nông tạo ra hệ thống hang động dung nham, có quy mô và độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Theo khảo sát, nghiên cứu của các nhà khoa học, quá trình hoạt động các dòng dung nham từ miệng Núi lửa Nâm B’Lang chảy về tất cả các hướng khác nhau (Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam và Đông Nam). Đến nay, phát hiện được 4 hệ thống hang động, gồm 50 hang động có đặc điểm phân bố và cơ chế tạo thành hang, cửa hang phong phú, đa dạng và đẹp. Có nhiều hang phân bố ở tầng nông, nhưng cũng có nhiều hang phân bố ở tầng sâu hàng chục mét. Núi lửa Nâm B’Lang, phân bố ở độ cao khoảng 601m so với mực nước biển với chiều sâu miệng núi lửa khoảng 59m. Trục dài núi khoảng 160m, trục ngắn khoảng 100m; diện tích miệng núi lửa khoảng 4ha, diện tích núi lửa khoảng 1,6km2. Khu vực Núi lửa Nâm B’Lang nằm gần các bon, buôn giàu truyền thống văn hóa của các dân tộc M’nông, Ê đê… với các lễ hội, nghề truyền thống và các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng tạo thuận lợi để kết nối tour, tuyến du lịch, khai thác và phát triển du lịch trong tương lai. Ngày 12/3/2024, Bộ Văn Hóa -Thể Thao -Du Lịch đã ban hành Quyết định số 611 xếp hạng Di tích quốc gia đối với Danh lam thắng cảnh Núi lửa Nâm B’Lang, xã Buôn Choah và xã Nam Đà. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
Lâm Đồng 2081 lượt xem
Kho mở Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm tọa lạc tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nơi đây trưng bày hơn 100 hiện vật nguyên gốc mang đậm giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc Chăm và được phân thành 8 nhóm sưu tập. Trong đó, giá trị nhất là bộ vương miện của vua Po Klaong Mânai và búi tóc của Hoàng hậu Po Bia Som bằng chất liệu vàng với đường nét chạm khắc hoa văn rất tinh xảo, độc đáo ở đầu thế kỷ XVII. Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị về lịch sử ra đời của vương triều Chăm xưa, về trang phục, trang sức, vương miện, vũ khí, đồ ngự dụng trong hoàng cung,… được các đời hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, trải qua hơn 400 năm. Trước năm 1975, Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm được cất giữ kín trong kho vì những lý do tâm linh, tín ngưỡng và phần quan trọng khác là an ninh, an toàn cho di sản và người bảo vệ di sản. Cho đến những năm 1991 - 1992 thì việc khảo sát, nghiên cứu và lập Hồ sơ khoa học Đền thờ vua Po Klaong Mâhnai và Bộ sưu tập mới từng bước được tiến hành và hoàn thành trình Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 43/Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/01/1993. Sau khi được xếp hạng, nhận thức được việc phải bảo vệ lâu dài Bộ sưu tập duy nhất của tổ tiên còn lại nên gia đình hậu duệ Hoàng tộc Chăm là bà Nguyễn Thị Thềm (1911 - 1995) đã đồng ý từng bước để Bảo tàng Bình Thuận thiết kế, trưng bày Bộ sưu tập dưới dạng “Kho mở”. Tuy nhiên, do ngôi nhà của bà Thềm được xây dựng những năm đầu của thập niên 1960, không gian khá chật hẹp, tầng dưới để ở, tầng trên chia thành 2 phòng để trưng bày nên gia đình chỉ mở cửa phục vụ cho các đoàn nghiên cứu, đoàn chính khách là chính, chưa phục vụ rộng rãi cho du khách tham quan chiêm ngưỡng các hiện vật gốc. Nhiều năm qua, chính quyền các cấp và các ngành chức năng cũng đã triển khai nhiều việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm. Tuy nhiên, hiệu quả phát huy vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với giá trị của di sản. Chính vì vậy, cần có hướng tiếp cận mới để Bộ sưu tập thực sự phát huy giá trị trong đời sống xã hội phát triển, đặc biệt là sự bùng phát về du lịch văn hóa. Qua thời gian khảo sát, thống kê, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận đã phân loại Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm thành 8 sưu tập như sau: Sưu tập vương miện vua và hoàng hậu; Sưu tập vũ khí: Đao, kiếm; Sưu tập nhạc khí (Phèng la); Sưu tập đồ thờ tự (tín ngưỡng, tâm linh); Sưu tập vải (vải thổ cẩm và vải có nguồn gốc từ nước ngoài); Sưu tập gốm sứ; Sưu tập giấy: Sắc phong một số đời vua triều Nguyễn và một số loại tư liệu về đất đai, địa bạ, các văn bản hành chính sao chép bằng chữ Hán Nôm từ những sắc phong các đời vua nhà Nguyễn; Sưu tập gỗ: Rương đựng đồ hoàng tộc, mũ vệ binh. Nguồn Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận.
Lâm Đồng 2289 lượt xem
Từ khi tạo dựng đến nay, người dân trên đảo gọi tên chùa là “Linh Quang Tự” nhằm cầu mong hào quang, ánh sáng của chùa luôn linh hiển soi sáng để cứu độ dân chúng trên đảo có cuộc sống an bình và hạnh phúc. Linh Quang Tự là ngôi chùa khởi đầu gắn liền với sự truyền bá ánh sáng Phật Giáo ở Phú Quý. Không chỉ là một nơi có quang cảnh đẹp, mà Linh Quang Tự là ngôi chùa tiêu biểu trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, nghệ thuật so với các ngôi chùa khác ở trên đảo. Linh Quang Tự là ngôi chùa cổ nổi tiếng về qui mô cũng như nghệ thuật kiến trúc, tôn giáo, lễ nghi, có những cảnh trí thiên nhiên đa dạng xứng đáng là danh lam thắng cảnh của đảo Phú Quý. Nếu tính niên đại chính thức của ngôi chùa theo gia phả để lại thì chùa được kiến tạo, tu bổ lại vào năm Đinh Mão 1747 đời Vua Lê Hiển Tông – niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8. Đến nay (2017) ngôi chùa đã có niên đại 270 năm và cũng đến nay đây là một trong những ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Bình Thuận. Với những giá trị và ý nghĩa tiêu biểu đó, chùa Linh Quang được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng thắng cảnh cấp Quốc gia tại Quyết định số 51 Quyết Định /Bộ Trưởng ngày 12/01/1996. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận.
Lâm Đồng 2213 lượt xem