Thác Drai Dlông cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 35 km, thuộc địa bàn hai xã Quảng Hiệp và Ea M’Drŏh, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Drai trong tiếng Êđê nghĩa là thác; Dlông có nghĩa là cao, vì vậy, Drai Dlông có nghĩa là thác cao. Ngoài ra, thắng cảnh này còn có tên gọi khác là thác Ba tầng. Nằm ở phía Tây Nam của xã Quảng Hiệp, được tạo thành bởi hai ngọn đồi bao bọc có độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển, dòng chảy của thác Drai Dlông bắt nguồn từ dòng chảy của hai con suối Ea’Drǒh (con suối lớn) và suối Ea M’Drǎh (con suối nhỏ), đến đoạn gần thác khoảng 01 km thì hòa quyện vào nhau, gặp những tảng đá to lớn, thẳng đứng với độ cao 30m chặn lại, chia dòng chảy thành ba nhánh, trải dài như ba dải lụa trắng từ trên cao đổ xuống. Từ dưới nhìn lên, ngọn thác cao vời vợi, lấp lánh ánh bạc, xung quanh là rừng cây xanh tốt với các loại cây vươn cao để thích nghi với dạng địa hình vách đá thẳng đứng, có nhiều loại cây gỗ quý hiếm như sao, hương, cà chít, bằng lăng tím, đặc biệt là loài xương rồng mọc trên đá. Cách thác Drai Dlông khoảng 01 km là buôn M’Drŏh (buôn Cháy), đây là buôn của người Êđê Adham. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, bà con buôn M’Drŏh cùng với buôn Rừng, buôn Ưng, buôn Ea Win đã vận chuyển lương thực cho kháng chiến từ trạm A10-B3 qua Ea H’Leo, Krông Bông và xuống Phú Yên, Khánh Hoà. Buôn M’Drǒh là buôn căn cứ của H5, đồng bào trong buôn đã kiên trì đấu tranh, tổ chức tuần tra canh gác, đưa dẫn, nuôi dấu cán bộ cách mạng, vót chông, làm bẫy, chế tạo vũ khí thô sơ để bảo vệ buôn làng. Thời kỳ chiến tranh ác liệt, địch tổ chức càn quét, bắt bớ, đánh đập dã man nhưng đồng bào buôn M’Drǒh từ già, trẻ, trai, gái thà bị đánh đập, đói cơm lạt muối chứ quyết không hợp tác với giặc, một lòng theo Đảng đến cùng. Khi bị địch phát hiện đây là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng, cả buôn M’Drǒh bị đốt cháy không còn một nhà nào nên buôn còn được gọi là Buôn Cháy. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng thác Drai Dlông là Di tích Danh lam thắng cảnh Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk 1836 lượt xem
Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông thuộc địa bàn xã Ea M’nang, huyện Cư Mgar và xã Cuôr Knia, huyện Buôn Đôn, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 22 km về hướng Tây Bắc. Thác Drai Yông được xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 823/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 09/3/2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tổng diện tích khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích: 83,62 ha (Khu vực I: 5,83 ha; Khu vực II: 77,80 ha). Trong tiếng Êđê, thác Drai Yông, có nghĩa là “thác đòn dông” hay “thác nước đổ mạnh”. Đây là một dòng thác đẹp nằm ở trung nguồn suối Ea Tul – một dòng suối bắt nguồn từ suối Kǒ Čư Kpô, huyện Krông Búk. Suối Ea Tul có dòng chảy từ Đông sang Tây, cuối cùng đổ ra sông Sêrêpốk. Trên dòng chảy của mình, dòng suối này tạo nên ba dòng thác đẹp là thác Drai Kroa, Drai Yông và Drai Mpi. Trong hệ thống thác này, Drai Yông là thác thơ mộng và hùng vĩ nhất. Thượng nguồn Drai Yông là cả một dòng suối rộng gần 100m, 48 bờ phía Bắc là những bụi tre, khóm nửa mọc đan xen nhau và những cánh rừng tái sinh được chính quyền địa phương cho trồng để khôi phục cảnh quan, tạo môi trường cho di tích. Bờ phía Nam là những thảm cỏ xanh mượt và cánh đồng ngô tươi tốt. Khi chỉ còn cách nơi thác đổ khoảng 10m, nước từ thượng nguồn bỗng cuồn cuộn chảy về, bất chợt đứt gãy đổ xuống một thung lũng sâu tạo nên dòng thác Drai Yông. Nơi thác đổ có chiều rộng khoảng 80m và chiều cao khoảng 12m, nước cuồn cuộn đổ tạo ra những âm thanh vang vọng cả một vùng. Hơi nước, bụi nước từ dòng thác bay trắng xóa, mù mịt tựa như màn sương bay lơ lửng trong không khí, khi ánh mặt trời chiếu xuyên qua màn hơi nước này trở thành dải cầu vồng rực rỡ huyền ảo dưới ánh nắng ban mai. Danh lam thắng cảnh thác Drai Yông là một bộ phận cấu thành di tích của huyện Cư Mgar và huyện Buôn Đôn. Với cảnh quan thiên nhiên nên thơ, không khí trong lành và thoáng mát, thác Drai Yông là một địa điểm du lịch lý tưởng, có sức hút rất lớn đối với những người đam mê các hoạt động dã ngoại ngoài trời, muốn tìm về thiên nhiên để xua tan căng thẳng, mệt mỏi sau những ngày lao động nặng nhọc nơi đô thị ổn ào, náo nhiệt và bụi bặm. Bên cạnh đó, hệ sinh thái quanh Thác còn lưu giữ được nhiều nét hoang sơ, lại gần với trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, giao thông tương đối thuận tiện cho du khách trong và ngoài tỉnh cũng như khách quốc tế đến tham quan, trải nghiệm, khám phá tại danh thắng này. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 1909 lượt xem
Hồ Lăk theo ngôn ngữ của dân tộc Mnông thì từ “Lăk” có nghĩa là “Nước”. Hồ Lăk còn gọi có tên gọi khác là hồ Lạc Thiện, nằm ngay thị trấn Liên Sơn, huyện Lăk, cách trung tâm Buôn Ma Thuột 56km về phía Nam trên quốc lộ 27 đường đi Đà Lạt. Hồ Lăk có diện tích hơn 500 hecta, đây là một trong những hồ tự nhiên có diện tích lớn nhất ở Việt Nam, phía Tây Nam của hồ thông với dòng sông Krông Ana (Sông vợ) là một trong những nhánh sông lớn của dòng Sêrêpôk, phía Tây hồ Lăk là dãy Čư Yang Sin hùng vĩ như ngực chàng trai cường tráng che chắn cho mặt hồ bốn mùa phẳng lặng dưới chân núi. Từ trên đỉnh đèo Lạc Thiện của buôn Yang Rôk thuộc xã Lăk Yang Tao nhìn xuống chúng ta sẽ thấy cảnh hồ hiện ra với một vẻ đẹp lộng lẫy – Trời mây, nước, đồi núi, đồng ruộng hoà lẫn vào nhau như một bức tranh thuỷ mạc. Hồ Lăk còn gắn liền với truyền thuyết về lửa và nước của đồng bào Mnông. Chuyện kể rằng: Ngày xửa, ngày xưa đã lâu lắm rồi, chẳng biết vì nguyên cớ gì thần nước và thần lửa bỗng mâu thuẫn với nhau. Sau một trận kịch chiến, thần nước thua trận phải chui vào một tảng đá. Từ đó hạn hán bắt đầu xảy ra, mấy năm liền không có mưa, cây cối và súc vật chết hết. Dân làng ngửa mặt lên trời, tiếng ai oán dậy đất. Một ngày kia, có một chàng trai nghèo ra đi, với quyết tâm tìm ra nguồn nước cho buôn làng. Chàng cứ đi mãi, đi mãi, một lần mệt quá chàng trai ngồi nghỉ trên một tảng đá có một chú lươn đang nằm cuộn tròn. Chàng bắt chú lươn đó đem về bỏ trong một cái nồi, sáng hôm sau chàng bỗng thấy có những giọt nước từ miệng lươn nhả ra, đọng dưới đáy nồi. Chàng linh cảm rằng: Thần Nước đây rồi!. Chàng bèn thả lươn ra và cứ lần theo dấu lươn trườn mà đi, đi mãi, tới khi lươn biến mất thì cũng vừa lúc một hồ nước mênh mông vụt hiện ra trước mắt. Chàng trai dụi mắt một lần, hai lần, rồi lại một lần nữa mới dám tin rằng không phải mình mơ. Hồ Lăk có từ đấy. Ngày nay, hồ Lăk là một điểm du lịch hấp dẫn, đến đây du khách sẽ được cưỡi voi, chèo thuyền độc mộc, tìm hiểu về phong tục tập quán truyền thống của cộng đồng tộc người Mnông tại buôn Mliêng – một trong những buôn cổ đang được bảo tồn của tỉnh. Bên cạnh đó, hồ Lăk còn là một vựa cá lớn của tỉnh, là nguồn cung cấp thuỷ sản dồi dào phục vụ cho đời sống của nhân dân. Đặc biệt, trên đỉnh đồi cạnh hồ Lăk đã được vua Bảo Đại xây dựng một Biệt Điện để nghỉ ngơi, ngắm phong cảnh. Biệt Điện hiện được Công ty Du lịch Đắk Lắk trùng tu và khai thác phục vụ khách du lịch. Ngày 11/5/1993, hồ Lăk được nhà nước công nhận là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 1978 lượt xem
Thác Dray Sáp Thượng nằm trên dòng sông Ea Krông, cạnh buôn Kuôp thuộc địa phận xã Ea Na, huyện Krông Ana, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 18km về phía Nam. Nhìn từ xa, thác Dray Sáp Thượng nổi bật một màu trắng xóa trên mặt nước bàng bạc của dòng sông Ea Krông. Hai bên dòng sông là một màu xanh mênh mông của núi rừng. Ngay khu vực thác, một hình ảnh thật hùng vĩ, gây ấn tượng mạnh mẽ đó là hình ảnh dòng sông Ea Krông, với làn nước trôi nhè nhẹ phía thượng nguồn, bỗng nhiên gấp khúc bởi một thềm đá chắn ngang cả dòng sông, rộng khoảng 70m. Nước sông ào ào dội xuống vực thẳm cao khoảng 08m, vang vọng cả một góc rừng. Mùa mưa, nước ngập tràn mặt sông, chúng ta chỉ thấy một ngọn thác khổng lồ, dữ dội. Tuy nhiên, đến mùa khô lưu lượng nước sông vơi hẳn, tạo thành 09 ngọn thác lớn nhỏ khác nhau. Trong số 09 ngọn thác, có 05 ngọn thác nằm phía giữa dòng sông cách nhau từ 05 đến 10m, có dòng nước ầm ầm đổ xuống, nhưng có dòng nước lại chảy róc rách nhẹ nhàng. Thác Dray Sáp Thượng từ xa xưa đã trở thành tình yêu và sự gắn bó của người dân bản địa nơi đây. Được thể hiện qua câu chuyện cổ dân gian của người Êđê đầy thi vị, về sự tích của dòng thác Dray Sáp Thượng này. Chuyện kể rằng: Thuở xa xưa, tại một buôn làng Êđê nọ có một người con gái rất đẹp tên là H’Mi, nàng yêu một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, hiền lành. Hàng ngày, đôi trai gái thường rủ nhau đi làm rẫy. Một hôm, sau khi làm rẫy xong, hai người rủ nhau đến nghỉ trên một tảng đá dưới tán cây cổ thụ xum xuê. Ngồi nghỉ chưa kịp ráo mồ hôi thì họ bổng thấy một con quái vật, đầu to như quả núi, mắt lớn tựa nồi đồng, râu dài mấy sải tay, tóc nhọn như tên, toàn thân phủ một lớp vảy trắng, lấp lánh như bạc. Con quái vật bay lên bầu trời rồi bất thần sa xuống đất như quạ vồ mồi, chân nó đạp mạnh làm cả một khoảng đất rộng lún xuống và tại đó một cột nước khổng lồ phun lên dữ dội, kéo theo cả nàng H’Mi đang khiếp đảm, còn người yêu của nàng thì bị cuốn tung đi nơi khác. Chàng trai như mảnh hổ cố sức giằng kéo người yêu lại nhưng đành tuyệt vọng, nhìn người yêu đang tan biến vào lớp sương mù, cùng những vẩy trắng lấp lánh. Từ đó, chàng trai biến thành một thân cây lớn, gốc cắm sâu vào ghềnh đá, thân mang dáng dấp một người đau khổ đang dang tay than khóc. Còn cột nước khổng lồ thì biến thành ngọn thác Dray Sáp Thượng ngày nay. Và, ở đầu kia nàng H’Mi vẫn thủy chung gào khóc đêm ngày đòi lại người yêu. Ngoài ra, thác Dray Sáp Thượng còn gắn liền với sự kiện lịch sử như sau: những năm 1930 – 1933, thực dân Pháp đã huy động dân phu và tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột lao dịch hết sức cực nhọc, gian khổ dưới đòn roi tra tấn, cực hình của chúng để xây dựng một đoạn đường vòng cung đi qua thác cùng với chiếc cầu treo qua sông Ea Krông. Ngày nay, chúng ta vẫn thấy hai bên còn hai mấu cầu mà thực dân Pháp đã cho xây dựng, đây là minh chứng lịch sử thuyết phục nhất về sự tàn ác của thực dân Pháp lúc bấy giờ, đã có không biết bao nhiêu dân phu và tù chính trị đã bỏ xác nơi rừng sâu, vực thẳm. Và đây, cũng chính là nơi thử thách, rèn luyện tin thần và ý chí đấu tranh cách mạng của những người Cộng sản yêu nước. Ngày 04/1/1999, Bộ VHTT đã ra quyết định số 01/1999/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao công nhận thác Dray Sap Thượng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Diện tích quản lý của thác là 277,5 ha. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 1939 lượt xem
Thuộc địa phận thôn Giang Tiến, xã Ea Puč, huyện Krông Năng, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về hướng Đông. Bắt nguồn từ những dòng suối trong rừng sâu đổ ra với 4 thác chính, mỗi thác có một vẻ đẹp riêng. Thuỷ Tiên tựa như một nàng tiên ẩn mình bên rừng núi với những dòng thác hiền hòa uốn lượn giữa đại ngàn. Đến với thắng cảnh thác Thủy Tiên chúng ta sẽ được thả hồn trong tiếng suối reo, ngắm bức tranh huyền ảo của thiên nhiên hai bên bờ thác, với những vách đá dựng đứng đến lưng chừng trời, và muôn vàn loài hoa, bướm, chim, thú. Không chỉ được biết đến như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mà dòng thác cũng được gắn với câu chuyện cổ dân gian của người Êđê. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tại một buôn làng Êđê có chàng trai tên là Đăm Ji, tướng mạo phi thường, chân tay chàng rắn chắc như đá. Đăm Ji giỏi nghề săn bắn, mỗi nhát kiếm của chàng vun ra là muôn thú phải khiếp sợ, nhưng tính chàng lại rất nóng nảy, hung hăng, nếu ai làm trái ý của chàng lập tức chàng thẳng tay trừng trị người đó, nên dù rất tài giỏi nhưng chàng Đăm Ji không được mọi người nể phục, ngược lại người em ruột của chàng lại hiền lành, tốt bụng nên được mọi người yêu thương và quý trọng. Một hôm hai anh em Đăm Ji vào rừng săn thú, chưa săn được con thú nào mà cái miệng lại khát nước, trong rừng không có giọt nước để uống. Trong lúc tuyệt vọng vì khát, đang cầm cây kiếm trên tay chàng Đăm Ji nổi nóng liền vung một nhát xuống đất, nhát kiếm vừa đâm xuống đất bỗng trời đất rung chuyển và một dòng suối hiện ra trước mặt, chàng hét to vui sướng vì đã có nước cứu được cơn khát. Chàng đưa tay vung một mạch bảy nhát kiếm nữa xuống đất, thế rồi ở cách dòng suối không xa tự nhiên đá lở, rất rung, muôn thú hoảng loạn, chàng liền tới nơi xem thấy hiện ra trước mặt một dòng suối nữa. từ đó trong khu rừng mà chàng trai hay đến săn có hai dòng suối, suối phía Tây được mọi người đặt tên Ea Đăh và suối phía Đông được mọi người đặt tên Ea Puč. Nhưng hai dòng suối này lại có hai tính cách khác nhau cũng giống như hai anh em nhà Đăm Ji vậy. Suối Ea Đăh ở phía Tây có tính cách giống như người anh, rất hùng dũng, dữ dội. Nhắc đến tên dòng suối này người dân trong vùng ai cũng khiếp sợ, nếu đến đây bắt cá, tìm nước uống phải hết sức đề phòng không sẽ bị dòng suối cuốn trôi, trẻ em trong vùng xuống tắm thường bị dòng suối cuốn mất. Những ai đến đây đánh bắt cá mà khen suối này nhiều tôm cá mới bắt được cá, nếu mà nói dòng suối này ít cá hoặc không có cá, suối sẽ không cho cá, có bắt cả ngày họ cũng không được một con cá nào. Khi dòng suối giận dữ sẽ dâng nước gây lũ lụt để cuốn trôi người. Ngược lại, dòng suối Ea Puč ở phía Đông rất hiền hòa không làm hại mọi người, hể ai đến đây câu cá, bắt cá thì ra về tôm cá đầy gùi, nên mọi người gọi dòng suối Ea Puč là suối hiền. Dòng suối giống như người em hiền lành và tốt bụng thường hay giúp đỡ người khác, không giống như dòng suối Ea Đăh hung dữ. Bên cạnh đấy thác Thủy Tiên còn được gắn với câu chuyện tình đẹp giữa anh bộ đội cụ Hồ và một thiếu nữ dân tộc Êđê xinh đẹp, cả hai đã anh dũng chiến đấu chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ buôn làng, bảo vệ chiến khu cách mạng góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Ngày 03/3/2009 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng thác Thuỷ Tiên là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh
Đắk Lắk 1786 lượt xem
Thác Drai Kpơr thuộc buôn Trưng (thường gọi là buôn M’Trơng) xã Čư Bông, huyện Ea Kar, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về hướng Đông Nam. Trong tiếng Êđê: Drai có nghĩa là thác, Kpơr có nghĩa là linh hồn, tâm linh, thác Drai Kpơr có nghĩa là “thác linh hồn”, “thác tâm linh”. Ngọn thác từ lâu đã gắn bó với cuộc sống của đồng bào Ê đê vùng Čư Yang trong sự tôn kính trân trọng, là nơi Yang (thần linh) ngự trị, cho dòng nước mát lành, cho cánh rừng xanh mướt và đem lại sự sống cho dân làng. Thác Dray Kpơr được bắt nguồn từ dãy Cư Yang (Núi Thần) cao 769m, dòng Dray Kpơr là sự hợp lưu giữa dòng chảy Ea Kpăm và suối Ea Kpơr phát nguyên từ dãy Čư Kdroah có độ cao khoảng 700 m, trải dài hơn 100 m, vươn rộng khoảng 50 m, từ đây mạch nước len lỏi qua khe đá rồi từ độ cao 550m đột ngột đổ ào xuống xuống một thung lũng nhỏ thuộc Buôn Trưng, mạch nước rơi xuống vỡ tan tạo ra thác nước cao đến 30 m sau đó hòa chung cùng dòng sông Krông Pác. Thác là sự nối tiếp của 4 ngọn thác, mỗi ngọn thác có một vẻ riêng. Bao quanh là những cánh rừng nguyên sinh với nhiều hệ động thực vật phong phú. Cách thác 500m là căn cứ cách mạng buôn Trưng từ 1960 đến năm 1975, nơi ghi dấu những kỳ tích cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chuyện kể rằng: Vào những năm 60 của thế kỷ trước, Mỹ - Diệm chủ trương thực hiện hơn nữa những chiến lược chiến tranh đối với miền Nam Việt Nam. Chính vì vậy khi đạo luật 10-59 được ban hành. Ấp chiến lược tiến hành trên toàn lãnh thổ, kể từ bên này vĩ tuyến 17. Tây Nguyên cũng không nằm ngoài chiến dịch ấy. Và buôn Trưng là một trong những nơi mà ý đồ "chiến thuật" mị dân dùng người Thượng làm lực lượng nòng cốt (lực lượng Furô) để triệt tiêu cộng sản nằm vùng được sử dụng triệt để. Căn cứ cách mạng Dray Kpơr ra đời giữa khói lửa chiến tranh. Cùng lúc đó một đơn vị bộ đội giải phóng cũng ra đời (lấy mật danh H1) và đóng quân ngay dưới chân thác Dray Kpơr. Khi phát hiện ra căn cứ này, Mỹ - Ngụy liên tiếp tiến hành những cuộc khủng bố trắng, buôn Trưng liên tiếp phải gánh những quả bom từ trên trời rơi xuống. Ngoài quang cảnh thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, gắn bó với di tích kháng chiến và gần gũi buôn làng, thác Drai Kpơr còn cung cấp nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho cánh đồng buôn Trưng. Ngày 15/12/2004, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ban hành Quyết định số 105/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao xếp hạng thác Drai Kpơr là Di tích Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk.
Đắk Lắk 1817 lượt xem
Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nơi đây không chỉ là đường dây liên lạc thông tin, chuyển tiếp tế từ miền Bắc vào hậu phương tại miền Trung đến các tỉnh miền Nam mà còn là nơi Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng các đơn vị ban ngành trong tỉnh chọn làm căn cứ, sống làm việc và hoạt động cách mạng. Đặc biệt, Khu căn cứ còn là nơi diễn ra 3 lần Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: lần thứ III (năm 1966), lần thứ IV (6/1969), lần thứ 5 (11/1971); là hành lang để đưa đón cán bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trong những năm 1968 -1973. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4241/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm, gồm 39 địa điểm. Theo lãnh đạo Sở Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch cho biết, Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm là một trong 43 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh, có giá trị và ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện lòng tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 1996 lượt xem
Tháp Chăm Yang Prong thuộc xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía Tây, còn có tên khác là tháp Chàm Rừng Xanh. Đây là một trong những tháp Chàm duy nhất ở Tây Nguyên được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII để thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga (vị thần vĩ đại), cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no hạnh phúc. Tháp Yang Prong hay còn gọi là Tháp chàm Rừng xanh là một ngọn tháp Chàm nằm ở thôn 5 xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, tỉnh Đăk Lăk. Tương truyền, tháp là ngôi mộ của người đứng đầu làng Chăm xưa kia. Năm 1906, người ta thấy ở trên khung cửa đá của tháp những dòng bia ký cổ của vị Vua Chăm trị vì vào cuối thế kỷ XIII. Những dấu tích vật chất quanh Yang Prông lại như chứng tỏ đây vốn là một khu thành trì dinh thự xưa của người Chăm ở Tây Nguyên. Toà tháp còn khá nguyên vẹn, cao hơn 10m, xây bằng gạch cứng với nhiều kích cỡ khác nhau. Tháp có bình đồ vuông, phần tiền sảnh phía Đông rộng 1,60m. Cấu trúc tháp hình vuông, phía trên nhọn như củ hành, khác với các kiến trúc Chăm thường thấy. Năm 1990, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã tìm đến và có một số công trình nghiên cứu về tháp. Các nhà khoa học đều khẳng định: Yang Prông được xây dựng vào thế kỷ 13, chứng tỏ cách đây khoảng 700 năm, Tây Nguyên không chỉ có người bản địa mà đã có những dân tộc khác cùng sinh sống. Yang Prông là một di tích có ý nghĩa lớn đối với các nhà dân tộc học, lịch sử, kiến trúc…Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời Vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Shiva dưới dạng Mukhalinga, cầu mong sự nảy nở của giống nòi, và ấm no hạnh phúc. ThápYang Prong được phát hiện vào quãng những năm 1904-1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về công trình này trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912. Tháp Yang Prong là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp có chiều cao 9m, đáy vuông mỗi cạnh dài 5m, mỗi mặt tường ngoài là 3 cửa giả, một cửa duy nhất mở về hướng Ðông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chàm khác ở Trung Bộ. Trong thời gian chiến tranh, tháp bị những kẻ đi tìm vàng đánh mìn nên đã hư hỏng nhiều. Tháp cũng không được xây dựng trên những ngọn đồi cao, núi thấp không bóng cây như những ngọn tháp chàm khác mà lại nằm chìm lấp dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Súp và bên dòng sông Ea H'leo hiền hòa. Yang Prông có nghĩa là tháp thờ Thần Lớn, vị thần chuyên cai quản mùa màng theo quan niệm của người Chăm cổ. Đây là một công trình còn dang dở, bởi lẽ khi xây dựng tháp, đồng bào Chăm không bao giờ xây một cái mà thường là một quần thể. Hiện nay, tháp đã được công nhận là Di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy đã được tôn tạo nhưng nhìn chung tháp vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm của nó. Chung quanh tháp được bao quanh bởi những cây gỗ nhiều năm tuổi, khá rậm rạp, đây cũng là minh chứng cho nỗ lực bảo vệ của chính quyền địa phương. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian. Ngày 3 – 8 – 1991, tháp đã được công nhận là Di tích văn hoá kiến trúc cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 1985 lượt xem
Khu di tích lịch sử Đồng Khởi xã Hòa Thịnh là nơi trưng bày những hình ảnh lịch sử về ngày Đồng Khởi của quần chúng Nhân dân xã Hòa Thịnh. Đây cũng là nơi để giáo dục truyền thống cách mạng của xã đối với lớp trẻ ngày nay và mai sau, đồng thời để phục vụ khách tham quan du lịch tìm hiểu ý nghĩa lịch sử ngày Đồng Khởi xã Hòa Thịnh. Đây là khu di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định số 2005/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 16/11/2005 xếp hạng di tích quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh” Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng mới, tháng 1-1959, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là “Giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập, dân chủ và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam”, “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng ở tỉnh Phú Yên chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ nhất được tổ chức tại căn cứ Thồ Lồ (huyện miền núi Đồng Xuân) đề ra chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào Đồng Khởi ở đồng bằng, tuyển thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng vùng căn cứ và cơ sở quần chúng… Ông Dương Dụ, một nhân chứng lịch sử, là một trong những cán bộ cách mạng trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc đồng khởi Hòa Thịnh đã xúc động phát biểu, hệ thống lại quá trình diễn ra đồng khởi. Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 và chuẩn bị lực lượng, vào 19 giờ ngày 22-12-1960, lực lượng tham gia đồng khởi bắt đầu hành quân từ dốc Đá Ngó qua các thôn, xóm rồi chia thành ba cánh tiến đến trụ sở xã Hòa Thịnh, nổ súng đánh vào trung đội dân vệ của địch. Do được vận động từ trước, khi nghe tiếng súng nổ, hàng nghìn quần chúng từ các hướng đổ ra đường, mang theo gậy gộc, giáo mác cùng lực lượng vũ trang của huyện vừa tấn công, vừa nổi dậy truy bắt bọn tề ngụy, rồi tập trung về trụ sở xã Hòa Thịnh để dự mít-tinh. Lực lượng tham gia đồng khởi đã bắt tên Phó Đại diện giao nộp con dấu, giấy tờ, tài liệu... Khoảng 1 giờ sáng 23-12-1960, cuộc mít tinh bắt đầu. Nhân dân hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ và bọn bù nhìn tay sai”, “Cách mạng miền nam Việt Nam nhất định thắng lợi”. Đến 3 giờ cùng ngày, cuộc mít-tinh kết thúc. Hòa Thịnh trở thành xã đầu tiên của đồng bằng Khu 5 do chính quyền cách mạng làm chủ. Từ đồng khởi Hòa Thịnh, lực lượng cách mạng tiếp tục diệt ác, phá kiềm ở các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Mỹ, Hòa Hiệp. Vùng giải phóng của tỉnh Phú Yên mở rộng với hơn 20.000 dân, phong trào sản xuất nuôi quân, đóng góp ủng hộ cách mạng phát triển hơn bao giờ hết. Cũng từ đồng khởi Hòa Thịnh, hàng ngàn thanh niên của Phú Yên tình nguyện gia nhập bộ đội giải phóng, thoát ly vào căn cứ, đi khắp các chiến trường Khánh Hòa, Đắk Lắk làm nhiệm vụ chống Mỹ, ngụy, cứu nước. Nguồn Trang thông tin điện tử xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.
Đắk Lắk 2222 lượt xem
Núi Đá Bia nằm trên dãy đèo Cả, phía nam huyện Đông Hòa. Núi cao 706m, phía đông liền với hòn Bà sát biển, chân núi phía tây là quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông Sơn, chân núi phía nam giáp Vũng Rô. Sườn núi Đá Bia rất dốc với nhiều tảng đá chồng chất lên nhau, cây cối um tùm, đường lên đỉnh khá vất vả. Trên đó một khối đá cao lớn gọi là Đá Bia. Tùy mỗi góc nhìn có thể thấy Đá Bia với những dáng vóc khác nhau. Tại đỉnh núi có độ dốc cao, thấy Đá Bia giống như con sư tử nằm xuôi theo sườn. Ở ngã ba Hảo Sơn - Đập Hàn nhìn lên, Đá Bia hao hao như tháp Nhạn. Từ Bãi Xép - Bãi Bàng (xã Hòa Tâm) trông vào, Đá Bia giống như người ngồi. Tại trường Hòa Tâm nhìn Đá Bia giống như một ông Phật đứng, cũng có thể nói là nhà sư đang xuống núi. Dưới chân núi có Bãi Tiên. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn viết: “Núi Đá Bia ở Phú Yên là chỗ tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn núi khác. Khi Thánh Tông đánh được Chiêm Thành lấy đất này vào xứ Quảng Nam, lập dòng dõi Chiêm Thành cũ, phong cho từ đất ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, lưng xoay về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày chữ đã mòn mất”. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Xét sách thủy lục trình chí của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: Núi này có một chi chạy đến biển, chia hai dòng nước, cỏ cây cũng phân rẽ, có một hòn đá lớn quay đầu hướng đông như hình người. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua núi ấy, bùi ngùi than thở rằng: “Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, vì nghịch đạo trời nên phải chịu họa trời”. Nhân đó vua khiến chạm chữ trên đá. Việc vua Lê Thánh Tông có khắc chữ trên núi Đá Bia hay không? nhân dân vẫn xem đó là một huyền thoại, đánh dấu bước ngoặc lịch sử của vùng đất Phú Yên. Vì trong Đại Việt sử ký toàn thư có một đoạn nhật ký ghi cuộc nam chinh của vua như sau: “Ngày mùng một tháng 3 năm Tân Mão hạ thành Chà Bàn, ngày mồng 2 đã xuống chiếu lui quân”. Năm 1937, có cuộc khảo sát núi Đá Bia của tri phủ Tuy Hòa lúc ấy là Nguyễn Văn Thơ. Những năm gần đây có các cuộc khảo sát của thanh niên, sinh viên Phú Yên, họ cũng không tìm được một dấu tích nào cả. Núi Đá Bia (còn gọi là Thạch Bi Sơn) cao 706m, sừng sững uy nghi ở phía Bắc dãy Đèo Cả. Trên đỉnh núi là một khối đá khổng lồ cao 76m, có hình thù kỳ lạ, sáng sớm hay về chiều thường có mây trắng bao phủ chung quanh, khi ẩn khi hiện. Núi Đá Bia được công nhận di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Đắk Lắk 2296 lượt xem