Di tích lịch sử

Việt Nam

Nhà Tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan ( thân Mẫu Bác Hồ)

Bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng và hiếu học; quê gốc của dòng họ Hoàng tại thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu. Trong bà hội tụ những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam, đảm đang, nhân hậu, chịu thương, chịu khó, hết lòng vì chồng, vì con. Để tỏ lòng thành kính và tôn vinh công lao to lớn của bà, năm 2003, UBND tỉnh Hưng Yên đã quyết định khởi công xây dựng nhà thờ (nay là Nhà tưởng niệm) trên mảnh đất thôn Vân Nội, xã Hồng Tiến. Đây là công trình mang đậm nét kiến trúc truyền thống, hài hòa với không gian, cảnh quan làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong khuôn viên cũ của đình làng Vân Nội. Được khánh thành năm 2005, đây là một trong những công trình quan trọng của tỉnh, là nơi để các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh về dâng hương, thăm viếng, tưởng nhớ người phụ nữ cả đời hy sinh cho chồng con và dâng hiến cho dân tộc Việt Nam một người con vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu. Ngày 26-7-2023, Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên đã ký quyết định xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh đối với Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan theo số 1555/Quyết Định -Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân. Sau 20 năm kể từ khi xây dựng, một số hạng mục của công trình đã xuống cấp. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh và các sở, ban, ngành, đầu năm 2024, UBND huyện Khoái Châu đã triển khai Dự án trùng tu, tôn tạo Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan và các công trình phụ trợ, bao gồm các hạng mục: Trùng tu, tôn tạo các hạng mục di tích Nhà tưởng niệm; cải tạo, nâng cấp đường vào Nhà tưởng niệm và một số hạng mục khác… Sau 6 tháng thi công, đến nay, công tác trùng tu, tôn tạo các hạng mục và các công trình phụ trợ Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan đã hoàn thành. Di tích Nhà tưởng niệm bà Hoàng Thị Loan, để nơi đây thành địa chỉ đỏ, là điểm thu hút khách tham quan, tìm hiểu lịch sử… Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 3260 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đình - Chùa thôn Mão Xuyên

Căn cứ vào thần tích, sắc phong còn lưu giữ, Đình làng Mão Xuyên được xây dựng để tôn thờ vị Thành Hoàng Làng là Ông Hoàng Văn Lang hay còn gọi là Đức Hoàng Hai người con thứ 2 của nữ tướng Ngọc Chí thời Hai Bà Trưng là những người có công đánh đuổi quân Nam Hán những năm 40 – 43 sau công nguyên, đình có kiến trúc “ tiền nhất hậu đinh”. Hiện nay đình vẫn giữ được 2 đạo sắc phong và các hiện vật quý giá như bia đá, các bức đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống tượng thờ. Phía sau đình là chùa là nơi thờ phật Thích Ca Mâu Ni có kiến trúc chữ Đinh với nhiều nét cổ kính còn lưu giữ như Tam Quan, tiền đường và thượng điện. Trong kháng chiến chống quân xâm lược Đình - Chùa Mão Xuyên còn là nơi hoạt động cách mạng của các đồng chí tiền khởi nghĩa tại địa phương. Với ý nghĩa và giá trị lịch sử đó, tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, đồng chí Mai Xuân Giới, Phó Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch UBND huyện đã trao bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Đình-Chùa Thôn Mão Xuyên cho cán bộ và nhân dân xã Nguyễn Trãi. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2890 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cây đa và Đền La Tiến

Di tích lịch sử Cây đa và Đền La Tiến nằm trên địa bàn xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Đây là nơi tưởng niệm anh linh 1.145 anh hùng liệt sỹ, chiến sỹ cách mạng và đồng bào ta đã bị thực dân Pháp giết hại trong thời gian chiếm đóng tại đây (từ năm 1949 - 1954), trong đó có 121 cán bộ và nhân dân xã Nguyên Hòa (Phù Cừ, Hưng Yên). Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, La Tiến là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu về quân sự, án ngữ phía Nam Hưng Yên, phía Bắc Thái Bình và phía Tây Hải Dương nên địch đã lấy đây là vị trí chiếm đóng, lập bốt, án ngữ nhằm ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực, thực phẩm… từ các vùng lân cận và đàn áp phong trào cách mạng của quân, dân Hưng Yên. Ngay từ buổi đầu chiếm đóng, địch đã khủng bố hòng thiết lập “vành đai trắng” vô cùng tàn bạo. Chúng bắt hàng nghìn người dân và du kích trong vùng đưa về bốt La Tiến tra tấn dã man và giết hại bằng những hình thức man rợ. Chỉ trong gần 5 năm chiếm đóng tại La Tiến (1949 - 1954), địch đã giết hại 1.145 chiến sĩ cách mạng, đồng bào yêu nước. Nhưng sự tàn bạo của kẻ thù không những không đàn áp được phong trào cách mạng, mà còn thổi bùng lên ngọn lửa căm thù, ý chí chiến đấu ngoan cường vì độc lập tự do của quân và dân ta. Trận tiến công tiêu diệt bốt La Tiến do quân và dân ta tiến hành vào cuối tháng 1/1954 đã góp phần vào những chiến công vang dội của quân và dân tỉnh Hưng Yên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; có ý nghĩa to lớn trên chiến trường cả nước, góp phần làm suy yếu địch, tạo điều kiện cho quân và dân ta đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Với những giá trị lịch sử đặc biệt, Cây đa và Đền La Tiến đã được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 4007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin Du Lịch ngày 18/11/2015 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày nay, Di tích này đã trở thành biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất, quật khởi của nhân dân Phù Cừ nói riêng, nhân dân Hưng Yên và cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ là nơi lập bia căm thù, khắc ghi tội ác của kẻ thù, mà còn là địa điểm tri ân những chiến sĩ, đồng bào trong tỉnh và các tỉnh lân cận đã hy sinh anh dũng để bảo vệ từng tấc đất, khúc sông quê hương. Nơi đây cũng trở thành địa chỉ đỏ giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, anh dũng, kiên cường của cán bộ, chiến sỹ và đồng bào ta. Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2781 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Tống Trân

Đền Tống Trân tọa lạc tại vị trí đắc địa, trên khu đất cao và thoáng ở phía Nam thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Đền Tống Trân có tên tự “Tiên căn linh từ”, tên nôm là Đền Thượng, đền Quan Trạng, nhân dân thường gọi là Đền Tống Trân. Tương truyền đền được xây dựng trên nền nhà cũ của Tống Trân từ thời Lý. Ngôi đền nằm tách biệt với khu dân cư trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu Bắc Bộ. Năm 1950 ngôi đền đã bị phá hủy, qua nhiều lần trùng tu đến năm 1998, đền Tống Trân được tôn tạo lại khang trang. Đền Tống Trân có nghi môn kiến trúc hai tầng tám mái. Phần cổ diêm ghi chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên từ môn” (cổng đền Lưỡng Quốc Trạng Nguyên). Giữa khoảng sân là tắc môn bằng đá hình cuốn thư được chạm khắc, chế tác tỉ mỉ, tinh tế, có nội dung ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền bằng chữ Hán. Với nguyên lý “Khí gặp gió thì tán, gặp nước thì dừng” trong phong thủy , “ao mắt rồng” trước sân di tích quanh năm nước trong xanh mang ý nghĩa là điểm tụ thủy (tụ khí) đem lại sự hưng thịnh, vượng khí cho muôn dân trong làng. Di tích có kiến trúc hình chữ Nhị, chuẩn lối kiến trúc xưa, gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tòa tiền tế gồm 3 gian 2 chái được làm theo kiểu tường hồi bít đốc. Giữa đường bờ nóc là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và đôi mặt nguyệt, hai bên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Trên các bức chấn phong 3 gian tiền tế đều chạm khắc hình hoa lá và ghi chữ Hán. Trong gian Tiền tế, nền ở 2 đầu hồi cao hơn nền của 3 gian giữa một khoảng là 45cm. Hệ thống kê chân cột là tảng hình quả bồng. Đỡ phần mái là các bộ vì kèo kết cấu theo kiểu giá chiêng, các cấu kiện được bào trơn, đóng bén tạo nên vẻ chắc khỏe, vững trãi cho ngôi đền. Gian giữa đặt bàn thờ Công đồng, phía trên ban thờ là 3 bức cửa võng sơn son thếp vàng, phía trên cửa võng là bức Đại tự chữ Hán “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Gian bên phải treo bức cuốn thư, gian bên trái là bức trâm viết bằng chữ Hán, nét chữ thanh thoát, sắc nét, đề 8 câu thơ ca ngợi cảnh đẹp của vùng đất cũng như không gian phong quang, thoáng đãng của khu đền. Hậu cung có kiến trúc tường hồi bít đốc, gồm 3 gian 2 chái. Kết cấu hai bộ vì giữa có kiến trúc kiểu giá chiêng. Giữa bộ vì hồi là đầu hổ phù ngậm chữ Thọ và xung quanh là hoa dây. Các đầu dư đều chạm đầu rồng cách điệu với đao mác dựng ngược. Cách tạo tác này vừa có tác dụng chịu lực vừa để trang trí, phần nào làm bớt đi sự thô cứng của các cấu kiện kiến trúc. Gian giữa hậu cung là nơi đặt khám và tượng thờ Trạng Nguyên Tống Trân, hai gian bên là ngai thờ Dương Tam Kha và Đoàn Thượng. Trong khuôn viên di tích, ngoài khu thờ chính còn có đền Mẫu là nơi thờ vọng bà Cúc Hoa, người vợ hiền tần tảo của Tống Trân. Nàng cũng là người thay chàng chăm sóc mẹ trong suốt 10 năm khi Tống Trân đi sứ. Nhà Mẫu mới được phụng dựng lại trong những năm gần đây trên nền móng cũ với kiến trúc kiểu đơn giản. Tòa nhà có kiến trúc hình chữ Đinh gồm hai tòa tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm ba gian hai trái, kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Các cấu kiện được bào trơn đóng bén không chạm khắc hoa văn. Gian giữa là nơi đặt tượng thờ bà Cúc Hoa. Để tưởng nhớ đến công lao của bậc hiền tài, hàng năm lễ hội đền Tống Trân được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 âm lịch, trong đó ngày 13 và ngày 14 là ngày hội chính. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, đền Tống Trân đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2387/Quyết Định ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Phù Cừ , tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên 2846 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền thờ và lăng thượng tướng quân Doãn Nỗ

Đền thờ thượng tướng quân Doãn Nỗ tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1.000 m2 tại thôn Phương Trung, xã Phương Chiểu (thành phố Hưng Yên). Nơi đây đất tốt, bốn mùa cây cối xanh tươi. Thượng tướng quân Doãn Nỗ là vị khai quốc công thần thời Hậu Lê. Ông là một tướng tài của Lê Lợi, người có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỉ XV. Ông có nguồn gốc xuất thân từ một vọng tộc khá lâu đời ở chạ Kẻ Nưa (nay thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Ông sinh năm 1393, là con thứ 2 của cụ Doãn Quyết – người đã từng thi đỗ tam trường làm Cung hiển đại phu dưới triều Trần. Năm Ất Mùi (1415) giặc Minh về tàn sát vùng Nông Cống giết hơn 3.000 người, riêng Kẻ Nưa chỉ còn 18 người chạy thoát trong đó có 2 anh em ông. Năm 1416, Doãn Nỗ về với Lê Lợi, tham gia hội thề Lũng Nhai và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là một trong những tướng lĩnh đầu tiên của Lê Lợi. Năm 1425, Lê Lợi cử tướng quân Doãn Nỗ cùng với quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn chiêu dụ nhân dân, đem theo 1000 quân đánh vào phía Nam, giải phóng thành Tân Bình, Thuận Hóa (thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế ngày nay) để mở rộng địa bàn khiến quân Minh phải rút vào thành cố thủ. Từ đó nghĩa quân Lam Sơn có một hậu phương vững chắc, tiến lên phản công ra Bắc giải phóng Thăng Long. Sau kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, khi xét công ban thưởng, ông được vua Lê Thái Tổ phong làm Trung lượng đại phu, Tả bổng thánh vệ tướng quân, tước Đại Trí tự. Sau đó, ông được phong Trụ quốc công Thượng tướng quân quản đạo Sơn Nam. Ông được ban ấp lộc điền ở làng Hương Chiếu, nay là xã Phương Chiểu. Ông đưa cả gia đình ở kinh thành về Hương Chiếu, hình thành lên dòng họ Doãn ở Hưng Yên. Ngôi đền Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xây dựng ngay khi ông mất (1439). Xưa kia, đền thờ và lăng Thượng tướng công Doãn Nỗ chỉ là một ngôi miếu nhỏ với kiến trúc chữ Đinh, trải qua thời gian, ngôi miếu được trùng tu, tôn tạo ngày một to đẹp hơn. Hiện nay, đền có kết cấu kiến trúc hình chữ Tam gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Tiền tế gồm 5 gian bằng gỗ lim, dựng theo lối cổ, tứ trụ lòng thuyền con chồng đấu sen, chạm khắc hoa lá. Trung tâm gian tiền tế là bức đại tự “Trấn Gia Vũ Liệt” phía dưới có nhang án thờ, điêu khắc thế kỷ 19. Hai bên câu đối (Lê triều Thái Tổ phát tích Nam Sơn thùy đại hiển - Khai quốc công thần Doãn tướng công kiệt xuất anh hùng). Đối với Tòa Trung từ đặt khám thờ thân phụ của Doãn Nỗ là cụ Doãn Quyết và thân mẫu họ Nguyễn. Tòa Hậu cung ở vị trí trang trọng nhất đặt tượng thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Các hạng mục tương đối vững chắc, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của con cháu dòng họ Doãn và nhân dân địa phương đến chiêm bái, thể hiện lòng tri ân, thành kính với bậc tiền nhân. Cách đền thờ 500m là khu lăng mộ của Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Lăng được xây trên khu đất “Hình long ẩm thủy” (hình con rồng uống nước) với thế tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ. Lăng mộ ông nằm trên gò đất cao, xung quanh là đồng ruộng. Lăng có diện tích 16 m2 được xây 2 tầng 8 mái. Mặt trước lăng đắp nổi hàng chữ “Doãn Nỗ công thần”. Cạnh lăng là tấm bia hậu lược ghi về thân thế, sự nghiệp của Doãn tướng quân bằng chữ quốc ngữ để người đời sau tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ một danh tướng tiêu biểu thời Lê được cả nước tôn thờ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đến nay đền thờ Thượng tướng quân Doãn Nỗ còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu là cuốn gia phả chi họ Doãn ở Phương Chiểu, cuốn hợp phả họ Doãn, một đạo sắc phong thời Lê, các bức đại tự, câu đối và tượng của Thượng tướng quân Doãn Nỗ…Số hiện vật tuy không lớn song đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử đất nước, lịch sử danh nhân và lịch sử làng xã cùng những mối quan hệ huyết thống dòng họ. Bên cạnh đó, một số hiện vật, đồ thờ còn làm giàu cho nền nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Hàng năm, vào dịp đầu xuân, nhân dân địa phương và dòng họ Doãn đều mở hội vào giữa tháng Giêng để tưởng nhớ Thượng tướng quân Doãn Nỗ. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc đền thờ và lăng Thượng tướng quân Doãn Nỗ được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 20.4.1995. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch

Hưng Yên 2790 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm Nguyễn Thiện Thuật

Nguyễn Thiện Thuật (1844 - 1926) tự Mạnh Hiếu, người làng Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Đường Hào (nay thuộc làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào). Sinh trưởng trong một gia đình nho học nghèo, năm 1870, Nguyễn Thiện Thuật đậu tú tài. Năm 1874, Ông có công dẹp giặc ở phủ Kinh Môn (Hải Dương) được cử làm Bang biện phủ. Năm 1876, đậu cử nhân và giữ chức tri phủ phủ Từ Sơn, Ông làm quan thanh liêm, công minh, văn võ song toàn. Năm Kỷ Mão (1879), ông giữ chức Tán tương quân thứ, đến năm 1881, giữ chức Hương Hóa sơn phòng chánh sứ kiêm Tán tương quân thứ tỉnh Sơn Tây. Vì vậy, đương thời gọi ông là Tán Thuật hoặc Tán Đông (vì ông ở tỉnh Đông). Khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ, Nguyễn Thiện Thuật hai lần kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Lần thứ nhất, ông lui về Đông Triều, thường liên lạc với Đinh Gia Quế - lãnh tụ của nghĩa quân Bãi Sậy, chiêu mộ và phát triển lực lượng nghĩa quân ở vùng đồng bằng. Ngày 12/11/1883, nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật tấn công tỉnh lỵ Hải Dương bao vây địch, nhưng lực lượng còn non yếu, ông phải cho lui quân. Lần thứ hai vào cuối năm 1883, sau khi ký hiệp ước Hác Măng (Harmand), triều đình tiếp tục nhượng bộ thực dân Pháp, bãi binh ở Bắc Kỳ và đòi các quan lại phải về kinh đợi chỉ, Nguyễn Thiện Thuật bèn mang quân lên Hưng Hóa (Tuyên Quang) cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Tháng 3/1884, thành Hưng Hóa thất thủ, ông cùng với một số tướng lĩnh cương quyết ở lại chống Pháp. Sau khi thành Lạng Sơn thất thủ (tháng 3/1885), Nguyễn Thiện Thuật trốn sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến đấu. Tháng 7/1885, Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước thành lập căn cứ địa Bãi Sậy, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp, tiếp tục sự nghiệp của họ Đinh (lúc này Đinh Gia Quế đã mất). Vua Hàm Nghi phong cho ông là “Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần gia chấn trung tướng quân”, nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống, các tướng lĩnh tài giỏi theo về rất đông. Bãi Sậy là địa bàn đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược trong cùng đồng bằng sông Hồng lúc đó. Với vị trí đắc địa như vậy, ngay từ khi quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ (1883), Bãi Sậy đã được xây dựng thành một căn cứ chống thực dân Pháp của nghĩa quân Đinh Gia Quế. Từ năm 1885, trên cơ sở khu căn cứ mà họ Đinh đã xây dựng trước đó, với tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự, Nguyễn Thiện Thuật đã tiếp tục mở rộng khu căn cứ Bãi Sậy ra hầu khắp các phủ, huyện của tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, bao gồm Khoái Châu, Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ,... Với sự lãnh đạo sáng suốt của Nguyễn Thiện Thuật, phong trào Cần Vương trên vùng đất Bãi Sậy nhanh chóng phát triển về mọi mặt, trở thành một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX ở Bắc Kỳ. Năm 1888, Hoàng Cao Khải đem quân đàn áp phong trào, mượn danh Đồng Khánh dụ dỗ mua chuộc khuyên Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Nguyễn Thiện Thuật đã viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ “Bất khẳng thụ chỉ” (Không chịu nhận chỉ). Sau ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa, sang Trung Quốc với chủ trương cầu viện để tăng cường lực lượng chống Pháp. Suốt quãng đời còn lại ở Trung Quốc, Nguyễn Thiện Thuật thường liên lạc với Tôn Thất Thuyết và một số chiến hữu, trong đó có Nguyễn Chí Thường con trai thứ hai của ông. Sau Thường bị bắt đầy đi Côn Đảo. Ông lại cùng Kỳ ngoại hầu Cường Để và Phan Bội Châu sang Đông Kinh thành lập “Việt Nam Duy tân Phục quốc hội” với mục đích tìm cách giải phóng dân tộc, mở mang dân trí, tạo điều kiện đưa học sinh Việt Nam ra hải ngoại du học,… Nguyễn Thiện Thuật mất ngày 25/5/1926. Phần mộ của Ông được đặt trên quả đồi thuộc hương Quan Kiều, ngoại vi thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Bia mộ khắc dòng chữ “Việt Nam cách mạng. Cố tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật - Chi mộ”.Ngày 30/01/2005, di hài Ông đã được di chuyển về an táng tại xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Khu lưu niệm Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật tọa lạc trên mảnh đất Xuân Nhân - nơi đặt trạm gác tiền tiêu của nghĩa quân Bãi Sậy năm xưa, với tổng diện tích 1621,9m2, gồm nhiều hạng mục: cổng, nhà tưởng niệm, nhà bia, phần mộ của Tướng quân Nguyễn Thiện Thuật và bức tường phù điêu. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1892) là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn, kéo dài và có tiếng vang lớn nhất ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ trong phong trào "Cần Vương" chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX . Cuộc khởi nghĩa kéo dài một thập kỷ, trải qua ba giai đoạn, gắn liền với tên tuổi của ba vị thủ lĩnh: Đinh Gia Quế, Nguyễn Thiện Thuật và Nguyễn Thiện Kế. Song có thể khẳng định rằng Nguyễn Thiện Thuật là vị lãnh tụ tiêu biểu nhất, là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Nguyễn Thiện Thuật, xã Xuân Dục, thị trấn Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3077/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 2869 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm Tô Hiệu

Tô Hiệu sinh năm 1912, là con út trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, yêu nước. Cụ nội của Ông là Đốc Nam Tô Ngọc Nữu, được ca tụng là một trong ba người thầy mẫu mực của Bắc Kỳ đương thời. Thân phụ là ông Tô Y, thân mẫu là bà Ngô Thị Lý - con gái của Cụ Ngô Quang Huy, nguyên Đốc học Bắc Ninh, một trong những lãnh tụ chủ chốt của phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy cuối thế kỷ XIX. Ngay thừ nhỏ, Tô Hiệu đã tỏ ra là người thông minh và có chí lớn. Cha mất sớm, thân mẫu của Ông cùng với người con cả là Tô Tu phải vất vả nuôi 5 anh em ăn học. Tô Hiệu được cho đi học tại trường tiểu học nam Hải Dương. Năm 1926 khi mới 14 tuổi, Tô Hiệu tham gia phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh nên bị đuổi học, Ông được anh cả tiếp tục cho lên Hà Nội ăn học. Thời kỳ 1927 - 1929, Tô Hiệu cùng với em họ là Tô Gĩ được kết nạp vào tổ chức Xích Vệ đoàn - một tổ chức thanh niên học sinh do Hội thanh niên Việt Nam cách mạng - tổ chức tiền thân của Đảng lãnh đạo. Thời gian này, Tô Hiệu tham gia rất tích cực vào các hoạt động của hội như mít tinh, biểu tình giăng biểu ngữ trong những ngày kỉ niệm lớn của Quốc tế, đồng thời còn có nhiệm vụ bảo vệ cho đoàn biểu tình và các đồng chí lãnh đạo. Năm 1930, trong một lần đi vận động quyên góp, Tô Hiệu bị mật thám theo dõi, bắt giam và bị kết án 4 năm tù và đày ra Côn Đảo. Chính tại đây, Ông cùng với anh trai Tô Chấn được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, khi mới 18 tuổi. Tô Hiệu đã được những người cộng sản đàn anh như Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự tin tưởng, quan tâm dìu dắt và rèn giũa bản lĩnh người Đảng viên trẻ. Năm 1934, mãn hạn tù, Tô Hiệu được thả và bị quản thúc tại quê nhà làng Xuân Cầu. Vượt lên sự bao vây theo dõi của mật thám Pháp, Tô Hiệu vừa tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước, nâng cao dân trí, tập hợp quần chúng ở quê nhà, vừa tìm cách phối hợp với các đồng chí trung kiên để khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ. Cuối năm 1936, tại một cuộc họp ở nhà đồng chí Tô Hiệu thuê tại phố Hàng Bột (Hà Nội), gồm các đồng chí Hoàng Văn Nọn, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Lương Khánh Thiện, Trần Quý Kiên chính thức khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ sau những năm phong trào cách mạng thoái trào, các tổ chức Đảng bị tan vỡ. Tại cuộc họp, Tô Hiệu được bầu là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện công nhân và trực tiếp tham gia lãnh đạo công tác, hoạt động công khai tại Hà Nội (lúc này Hà Nội chưa có Thành ủy). Cuối năm 1938, Tô Hiệu được Trung ương cử làm Bí thư Liên khu B, bao gồm các tỉnh duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên; đặc trách Bí thư Hải Phòng. Tháng 12/1939, Tô Hiệu bị mật thám Pháp bắt giữ tại cơ sở ấn loát của Thành ủy. Mặc dù thân thể gầy gò bị căn bệnh lao phổi khi bị đày ở nhà tù Côn Đảo hành hạ, lại bị tra tấn, mua chuộc, nhưng với khí tiết kiên trung và nghị lực của người cộng sản, Ông đã vượt qua mọi thử thách ác liệt. Đồng chí bị kết án tù 5 năm, đày đi nhà ngục Sơn La đầu năm 1940. Đầu năm 1944, lúc này sức khỏe Tô Hiệu gần như suy kiệt, nhưng với tinh thần lạc quan, Tô Hiệu nói với anh em trong Chi bộ: “mình biết chắc chắn mình sẽ chết sớm hơn người khác vì vậy phải tranh thủ thời gian chiến đấu phục vụ cho Đảng”. Trước mấy ngày trút hơi thở cuối cùng, Tô Hiệu đã nhờ đồng chí Hoàng Tùng ghi lại bức di chúc cho Chi bộ nhà tù Sơn La, khuyên anh em ở lại giữ vững tinh thần chiến đấu, phân tích rõ tình hình thế giới và trong nước, sự tất thắng của Cách mạng. Đồng chí trút hơi thở cuối cùng vào ngày 7/3/1944 trong sự thương tiếc của tất cả đồng chí và đồng bào. Nhà cách mạng Tô Hiệu đã hy sinh nhưng Tinh thần Tô Hiệu mãi bất diệt và trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc, niềm tự hào của các thế hệ con cháu, cũng như người dân trong cả nước. Sự tích Cây đào Tô Hiệu tại nhà ngục Sơn La đã đi vào các trang sách và được coi là biểu tượng của tinh thần lạc quan cách mạng. Nhà Tưởng niệm Liệt sỹ Tô Hiệu được hưng công xây dựng năm 2000, cùng thời gian với việc xây dựng, tôn tạo Đốc Nam Tô Thị Từ Đường (nhà thờ họ Tô chi cụ Đốc Nam Tô Ngọc Nữu). Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu Nhà tưởng niệm gồm 3 gian tiền bái và 1 gian hậu cung, được làm bằng gỗ tứ thiết; các bộ vì được làm kiểu con chồng đấu sen kết hợp với kiểu kèo giá chiêng trụ chốn, tạo cho không gian nội thất được thoáng rộng. Các đề tài trang trí chủ yếu là hoa văn lá lật truyền thống, chủ yếu ở hai bộ vì hồi và trên các đấu sen kê trên các trụ cột. Gian Hậu cung bài trí ban thờ với ảnh và tượng đồng chí Tô Hiệu. Toàn bộ khu nội tự của ba gian nhà thờ dùng để trưng bày những hiện vật và hình ảnh quý về thân thế sự nghiệp và cuộc đời hoạt động của đồng chí Tô Hiệu được sắp xếp từ trái qua phải theo 3 chủ đề: Quê hương Xuân Cầu và gia đình, dòng họ Tô làng Xuân Cầu; Tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Tô Hiệu; Những tình cảm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với đồng chí Tô Hiệu. Nhà thờ Họ Tô chi cụ Đốc Nam - Tô Ngọc Nữu Cùng nằm trong khuôn viên di tích Nhà tưởng niệm đồng chí Tô Hiệu, cổng vào xây gạch chỉ, theo kiểu truyền thống, hai bên trụ cổng đắp nổi đôi câu đối chữ Hán. Công trình nhà thờ họ được thiết kế xây dựng bằng gỗ theo kiến trúc truyền thống; hướng Đông Bắc nhìn ra sông Nghĩa Trụ - một nhánh sông cổ của sông Hồng. Mặt bằng Từ đường có kiến trúc kiểu chữ nhất, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói âm dương. Lòng nhà chia làm 5 gian, hệ cửa làm kiểu bức bàn theo kiểu thượng song hạ bản; kết cấu các bộ vì kèo làm bằng gỗ tứ thiết theo kiểu con chồng đấu sen; đề tài trang trí chủ yếu tập trung ở bộ vì hồi và các bức cốn trên vì nách tại hai gian hồi với các đề tài trúc/mai hóa long, các đấu kê và trên các con chồng, đầu các xà nách chạm cánh sen, hoa văn lá lật mềm mại. Gian giữa nhà thờ là nơi đặt khám thờ, bên trong đặt 4 bài vị của các vị liệt tổ họ Tô. Gian hồi Phải trên treo bức đại tự 壽春 (Xuân Thọ) do các học trò của cụ Đốc Nam bái tặng mừng thọ cụ được làm năm Tân Mùi (1871). Giữa sân là cây đào được chiết từ cây đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La do Tỉnh ủy Sơn La tặng năm 1998. Với những giá trị trên, Khu lưu niệm Tô Hiệu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 3080/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 2576 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Sầm Khúc

Đình Sầm Khúc (còn gọi là Đình Chằm) thuộc xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào thần tích, sắc phong, bản kê khai của các Hương lão và Lý dịch làng Sầm Khúc (xưa là làng Mỹ Trạch) do Viện Viễn Đông Bác cổ thu thập vào năm 1938, hiện đang được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm và Thư viện tỉnh Hưng Yên và lời kể của các bậc cao niên trong thôn, đình Sầm Khúc là nơi tôn thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương (thời vua Hùng Vương), có công âm phù giúp các vua dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Trên câu đầu tòa Đại bái có ghi niên đại tuyệt đối năm dựng đình “Duy Tân nhâm tý niên mùi nguyệt giáp dần nhật lương thời thụ trụ thượng lương đại cát” (Ngày mùng 6 tháng 8 năm Nhâm Tý (1912) niên hiệu Duy Tân dựng thượng lương tốt lành). Dựa vào các sắc phong hiện còn, trong đó có đạo sắc phong sớm nhất vào năm Tự Đức thứ 10 (1856), có thể biết đình Sầm Khúc đã tồn tại từ trước thời điểm đó. Đình Sầm Khúc được khởi dựng trên một khu đất cao, thoáng, mặt tiền quay hướng Tây Nam. Ngôi đình có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh. Nhìn từ ngoài vào, trước mặt đình là hồ nước, giữa hồ nước và Nghi môn là con đường làng chạy qua. Qua Nghi môn là một khoảng sân rộng, trong cùng là kiến trúc của ngôi Đại đình bề thế, uy nghiêm và Hậu cung. Các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều được làm bằng gỗ tứ thiết mang đậm phong cách mỹ thuật thời Nguyễn còn đồng bộ, vững chắc. Nghi môn được làm theo kiểu tứ trụ (lồng đèn) tạo thành 3 cửa ra vào. Tòa Đại bái là hạng mục có diện tích lớn nhất tại đình Sầm Khúc gồm 05 gian được làm theo kiểu tường hồi bít đốc với kích thước dài 19,3m, rộng 10,17m, cao 6,4m (tính từ nóc mái xuống nền đình). Bốn phía xung quanh nền Đại bái đều được bó vỉa bằng gạch chỉ, cao 0,65m so với sân đình, phía ngoài phủ vữa áo. Phần móng được gia cố vững chắc. Mặt nền lát gạch bát (30cm x 30cm), mạch chữ công. Từ sân có bậc xây bằng gạch dẫn lên hiên Đại bái. Kết cấu kiến trúc Đại bái gồm có 6 bộ vì, với 24 cột gỗ (12 cột cái, 12 cột quân), kiểu 4 hàng chân cột. Khoảng cách giữa cột cái trước với cột cái sau là 4,22m, cột cái với cột quân là 2,05m. Các cột đứng trên chân tảng bằng đá xanh không trang trí hoa văn. Nâng đỡ phần mái tòa Đại bái là các bộ vì nóc và vì nách. Hệ thống vì nóc Đại bái đình Sầm Khúc đều được làm theo kiểu “chồng rường trụ trốn”. Các vì nách tòa Đại bái đình được tạo tác theo hai dạng: “bán chồng rường” ở các gian bên và “cốn mê” tại gian giữa. Tòa Hậu cung là hạng mục gồm 03 gian, nằm song song với tòa Đại bái, được làm theo kiểu tường hồi bít đốc, có kích thước 7,9m x 7,1m (khoảng cách giữa hai cột cái là 2,8m; cột cái đến cột quân 1,67m). Trung tâm Hậu cung là nơi đặt ban thờ Thành hoàng làng Phổ Cứu Đại vương. Mặt nền lát gạch 20cm x 20cm, mạch chữ công. Móng được bó vỉa bằng gạch đỏ phủ vữa áo. Điều đặc biệt tại Hậu cung đình làng Sầm Khúc hiện vẫn còn giữ lại được một phần kiến trúc ván sàn gỗ của ngôi đình cổ xưa. Hậu cung có kết cấu kiểu 4 hàng chân cột với 6 cột cái và 10 cột quân (cột cái có đường kính 300mm, cột quân có đường kính 250mm). Nâng đỡ hoành mái là các bộ vì nóc, vì nách và hệ thống cột gỗ kê lên chân tảng. Hậu cung có 03 bộ vì nóc làm kiểu “chồng rường”, không trang trí hoa văn. Các chạm khắc ở đây tập trung trên các thành phần cấu kiện kiến trúc, làm nên vẻ đẹp hoàn mỹ của công trình, mang phong cách nghệ thuật chủ đạo thời Nguyễn với nhiều đề tài trang trí khá phong phú, đa dạng làm cho ngôi đình trở nên sinh động và đạt giá trị kiến trúc nghệ thuật đỉnh cao trong nền nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đó, hình tượng tứ linh với rồng là chủ đạo trong các mảng chạm, ngoài ra còn có các trang trí như tứ linh hoá tứ quý, tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai), lá lật, vân mây, hoa văn chữ Thọ,… Đình Sầm Khúc là một công trình kiến trúc độc đáo, nơi lưu giữ được nhiều di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể. Hầu hết trên tất cả các cấu kiện và thành phần kiến trúc đều chạm khắc dầy đặc các đề tài trang trí phong phú, đa dạng thể hiện hình tượng các linh vật, hoa văn cây cỏ trong trạng thái động. Hiện đình Sầm Khúc còn lưu giữ được những di vật, cổ vật quý hiếm, có giá trị tiêu biểu: thần tích, đại tự, cuốn thư, sắc phong, chuông đồng, ngai và bài vị, cửa võng, kiệu,...Ngoài các dấu tích vật chất có giá trị lịch sử và nghệ thuật, đình Sầm Khúc còn là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá tâm linh của người dân nơi đây, phản ánh rõ nét tính cộng đồng làng xã đồng thời nêu cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Những nghi thức sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội, những trò chơi dân gian truyền thống đã phản ánh đời sống xã hội của cư dân nơi đây. Với những giá trị trên, Đình Sầm Khúc, xã Việt Hưng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 3078/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 27/10/2020./. Nguồn Cục Di sản văn hóa .

Hưng Yên 2619 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Ông

Chùa Ông hay có tên gọi khác là Bản Tịch tự, toạ lạc tại thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông đến nay đã gần 1000 năm tuổi. Đây là niềm tự hào của người dân Văn Lâm nói riêng và là di tích lịch sử văn hóa có giá trị lâu đời của xứ nhãn Hưng Yên. Cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 19km, dọc theo tuyến Quốc lộ 5 hướng Hà Nội - Hải Phòng, rẽ phải vào thôn Bình Lương, xã Tân Quang (huyện Văn Lâm) là ngôi chùa cổ được nhân dân nơi đây gọi là chùa Ông. Theo văn bia của chùa (nay chỉ còn thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), ngôi chùa được khởi dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Văn bia mang ký hiệu 5527 - 5528, trên trán bia đề: Bản Tịch tự bi minh, niên đại bia đề thời Lê Chính Hòa thứ 20 (1644), nội dung bia ghi việc thờ đức Thiền sư Từ Đạo Hạnh và ý nghĩa việc đặt tên chùa là chùa Bản Tịch. Chùa Ông dưới thời Lê là nằm trên địa phận hai thôn Bình Lương, Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An thuộc xứ Kinh Bắc. Năm Minh Mạng thứ 13 (1834) đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Tới cuối đời Nguyễn mới gọi là huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên. Trong chùa hiện còn tượng đồng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lý Thần Tông (đời thứ 5 nhà Lý - cũng là hiện thân Từ Đạo Hạnh sau sự trút xác ở núi Thầy). Chùa được bố trí hài hòa cân xứng theo kiểu chữ Tam bao gồm các hạng mục: Tiền đường, trung từ và hậu cung. Năm 1938, chùa được trùng tu, tôn tạo lại, kết cấu các vì theo kiểu chồng rường bào trơn có điểm hoa văn. Toàn bộ khung, cột của ngôi cổ tự được làm bằng gỗ lim rắn chắc, kết hợp với kiến trúc cổ chạm khắc công phu tạo cho tòa tiền đường một thế vững chắc mang tính nghệ thuật cao. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ xưa của ngôi chùa mang kiến trúc nghệ thuật rất công phu và độc đáo. Bước vào cổng chùa là không gian an yên, tĩnh tại với mái chùa rêu phong trầm mặc. Theo sách sử, chùa Ông được vua Lý Thần Tông xây dựng vào mùa xuân. Do vậy, mỗi dịp xuân về, nhân dân thôn Bình Lương nói riêng và nhân dân xã Tân Quang cùng du khách thập phương lại tụ hội về đây mở hội, làm lễ dâng hương để tưởng nhớ đến người đã có công đánh giặc giữ nước, dựng chùa. Lễ hội truyền thống chùa Ông diễn ra vào 3 ngày, từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3(Âm lịch) trong đó ngày 9 tháng 3 là hội chính. Năm 2001, Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, là niềm tự hào của người dân Văn Lâm. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hưng Yên 2955 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đại Hạnh

Ngày 16/5/2024, Bộ trưởng Bộ văn hóa Thể thao và du lịch đã ký ban hành quyết định số 1328/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đối với Đình Đại Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Đình Đại Hạnh là một trong số rất nhiều di tích trong tỉnh Hưng Yên thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử - Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa thời Hùng Vương thứ 18. Đây là Tam vị Thánh hóa được liệt vào hàng Tứ bất tử trong hệ thống linh thần Việt Nam. Đồng thời, chúng ta có thể coi Chử Đổng Tử là ông tổ của ngành thương mại Việt Nam, là người đầu tiên mở mang việc buôn bán, thông thương Quốc tế. Đình Đại Hạnh được khởi dựng từ sớm, trùng tu vào các thời Hậu Lê, Nguyễn. Hiện tại đình có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ Công gồm tòa Đại bái 03 gian 02 chái, Ống muống 01 gian và Hậu cung 03 gian. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ với nhiều mảng chạm khắc đẹp, đặc biệt là tòa Đại bái vẫn giữ được gần như nguyên vẹn dấu ấn kiến trúc chạm khắc tiêu biểu thời Hậu Lê thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: tứ linh, tứ quý, tùng lộc, chim trĩ,... mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Hậu Lê, thời Nguyễn. Ngoài ra, tại đình còn lưu giữ nhiều di vật tiêu biểu có giá trị như: Đại tự, câu đối,… Theo quyết định, Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giao Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 2451 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa