Chùa Thông nằm trong cụm di tích khởi nghĩa Yên Thế cách trung tâm đồn Phồn Xương khoảng 2km về hướng Đông Bắc. Ngôi chùa tọa lạc gần trục đường 265 tiện cho việc tham quan nghiên cứu. Xưa chùa Thông thuộc làng Nứa, xã Hữu Trung, có thời gian là xã An Lạc, tổng Hữu Thượng, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Đồng Lạc, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Khoảng những năm 1901-1902 cùng với nhiều di tích khác trong vùng Yên Thế, chùa Thông được Đề Thám cho tu sửa thêm phần khang trang. Trong cuốn Khởi nghĩa Yên Thế của tác giả Khổng Đức Thiêm, Nguyễn Xuân Cần ghi: “Chùa chiền, đình miếu, nhà thờ thiên chúa giáo bị hư nát được sửa lại nhiều như các ngôi đình ở Hà, Lan, Cao Thượng, các ngôi chùa Lèo, chùa Thông, Phồn Xương, các nhà thờ thiên chúa giáo...”. Khu di tích chùa Thông hiện nay gồm các hạng mục công trình: Khuôn viên vườn chùa, nhà Mẫu và khu chùa chính tất cả tọa lạc trên gò đồi có tổng diện tích: 3093 m2. Ngôi chùa hiện nay có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh gồm toà tiền đường ba gian nối với toà thượng điện hai gian. Phần liên kết vì mái toà tiền đường giống nhau kiểu chồng rường giá chiêng truyền thống các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc nhưng vẫn đượm màu thời gian cổ kính. Toà thượng điện có hai gian, phần liên kết vì mái kiểu vì giá chiêng kẻ chuyền, các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong chùa bài trí hệ thống tượng Phật đầy đủ gồm 17 pho tượng và một số tài liệu, hiện vật, đồ thờ tự có giá trị như mâm bồng, bát hương, đài thờ cổ... có giá trị lịch sử và giá trị nghiên cứu khoa học. Chùa Thông là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với khởi nghĩa Yên Thế, địa điểm nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp họp ký hòa hoãn lần thứ nhất (1894-1897). Năm 1894, để có thời gian chuẩn bị và củng cố lực lượng Đề Thám đã tổ chức bắt sống tên Sét-nay chủ bút báo Tương lai xứ Bắc Kỳ và nhân viên đi theo Lô-gi-u, tập kích một chuyến xe lửa rồi rút về Phồn Xương. Việc bắt ông Sét-nay đã giáng một đòn mạnh vào dư luận. Bọn tư sản, chủ thầu đòi cứu bằng được. Trước tình thế đó thực dân Pháp đã nhờ giám mục Vê-lát-cô làm môi giới điều đình với nghĩa quân. Cuộc đàm đạo kéo dài trong 15 ngày tại chùa Thông. Đề Thám cai quản 4 tổng: Mục Sơn, Yên Lễ, Nhã Nam, Hữu Thượng thu thuế ở đó trong 3 năm. Việc thương thuyết, điều đình tới ký hiệp ước tại chùa Thông nhiều tài liệu gọi đây là cuộc hoà hoãn lần thứ nhất giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp. Là di tích đặc biệt, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử về cuộc khởi nghĩa Yên Thế, chùa Thông là một trong 23 điểm di tích thuộc Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2764 lượt xem
Đình Dĩnh Thép cách thành phố Bắc Giang khoảng 31km về phía Tây Bắc. Từ thành phố Bắc Giang xuôi theo trục đường quốc lộ 1A (cũ) qua cầu Sông Thương rẽ phải theo tỉnh lộ 398 (tuyến Bắc Giang-Cầu Gồ), đến thị trấn Cầu Gồ. Từ Cầu Gồ, rẽ trái theo đường tỉnh lộ 265 khoảng 4km là tới xã Tân Hiệp và di tích đình Dĩnh Thép. Đình Dĩnh Thép được xây dựng từ lâu đời và đã được tu sửa tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Năm Thành Thái thứ 9 (1907), Hoàng Hoa Thám đã cho tu sửa tôn tạo ngôi đình nhằm bảo tồn giá trị văn hóa cổ của di tích. Di tích hiện nay được tu sửa tôn tạo khang trang tố hảo gồm ba gian hai chái tòa tiền đình nối hậu cung hai gian tạo bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh. Các vì mái liên kết đơn giản kiểu vì kèo cánh báng, các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc. Trong đình thờ Cao Sơn, Quý Minh, Minh Giang Đô Thống, thờ Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế tử trận, đó đều là những vị đã có nhiều công lao với dân với nước. Đình còn bảo lưu được một số đồ thờ tự có giá trị và ba tấm bia đá thời Nguyễn có nội dung ghi về việc công đức tu sửa đình. Giá trị nổi bật nhất của di tích đình Dĩnh Thép là nơi diễn ra Hội nghị ghi dấu thời điểm củng cố lại tổ chức của nghĩa quân Yên Thế: Năm 1888, Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh) sa vào tay giặc Pháp và bị xử tử, cuộc khởi nghĩa của phong trào Bãi Sậy và một số sỹ phu yêu nước bị thực dân Pháp đàn áp dữ dội. Yên Thế trở thành trung tâm thu hút của các cánh quân còn sót lại cùng hợp sức đánh Pháp. Thời điểm này rất cần củng cố lại phong trào sau những năm chống Pháp và hoạch định lại kế hoạch lâu dài cho cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Giữa lúc đó một Hội nghị quan trọng đã diễn ra tại đình Dĩnh Thép. Đình Dĩnh Thép còn là nơi giặc Pháp phải giao nộp 15000 frăng cho Đề Thám để đổi lấy hai tù nhân: Năm 1894, Đề Thám cho quân tổ chức nhiều trận phục kích chặn đánh các đoàn vận chuyển của Pháp để cướp lương thực, vũ khí trang bị cho nghĩa quân. Tại đình Dĩnh Thép, Pháp phải nộp 15000 frăng cho Đề Thám. Nhiều người dân địa phương chứng kiến kể lại: "Tháng 10 năm 1894, Pháp cho lính mang số bạc nộp cho Đề Thám tại đình làng Dĩnh Thép trên ba cái nong đổ đầy bạc trắng, Ông Thám còn nhặt mỗi nong vài ba đồng đem ra chặt thử xem bạc thật hay bạc giả”. Sau Đó cuộc thương thuyết giữa Đề Thám và Pháp thông qua giám mục Bắc Ninh hai tù nhân Pháp được Đề Thám trao trả. Đình Dĩnh Thép không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân, mà còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử chính trị gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân địa phương, tiêu biểu nhất là tại di tích này đã diễn ra Đại hội các tướng lĩnh để bầu ra các thủ lĩnh năm 1888. Lễ hội đình Dĩnh Thép diễn ra ngày 6 tháng Giêng và ngày 16 tháng 3 dương lịch với nhiều trò chơi dân gian thể hiện tinh thần thượng võ, khát vọng tự do của người dân Yên Thế như hội thi thả chim, hội thi cưỡi ngựa bắn cung, bắn nỏ, đấu võ dân tộc, đấu vật… Với những đóng góp to lớn đánh dấu bước chuyển biến lịch sử của cuộc khởi nghĩa nông dân do Đề Thám lãnh đạo, đình Dĩnh Thép là một trong 23 điểm di tích thuộc Hệ thống di tích lịch sử: Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTG ngày 10/5/2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2693 lượt xem
Trong hệ thống di tích khởi nghĩa Yên Thế, chùa Lèo là di tích khá đặc biệt và còn bảo lưu được gần như nguyên vẹn những giá trị xưa liên quan đến của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Ngôi chùa nằm bên cạnh trục đường giao thông quan trọng (xưa là đường mòn nhỏ trong rừng từ năm 1909 thực dân Pháp mở đường từ Nhã Nam qua cửa chùa Lèo vào Phồn Xương) nối khu căn cứ Phồn Xương với phủ Lạng Thương nay là đường 398, lại ở vị trí cửa ngõ trạm tiền tiêu của khu căn cứ Phồn Xương và các đồn lũy của nghĩa quân Yên Thế. Chùa Lèo được gọi theo tên làng Lèo thuộc xã Hữu Xương, tổng Hữu Thượng, phủ Yên Thế xưa nay thuộc xã Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa nằm bên cạnh trục đường 398 cách thành phố Bắc Giang khoảng 25 km về phía Tây Bắc. Từ thành phố Bắc Giang, theo tỉnh lộ 398 hướng Bắc Giang –Cầu Gồ khoảng 25km là tới di tích. Cách thứ hai, từ thành phố Bắc Giang ngược theo trục quốc lộ 1A (mới), khoảng 20km, đến ngã tư thị trấn Kép (Lạng Giang), rẽ trái theo đường 292 khoảng 15km tới trung tâm thị trấn Cầu Gồ rẽ trái tiếp theo đường tỉnh lộ 398 khoảng 2km nữa là tới di tích chùa Lèo. Chùa Lèo xưa được xây dựng trong quần thể di tích liên hoàn cổ kính gồm đình và chùa theo lối liên kết “tiền thần hậu Phật” đình trước chùa sau, tất cả tọa lạc ở khu rừng đồi Lèo nhìn về hướng Nam. Ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVI và đã được tu sửa qua nhiều giai đoạn. Thời kỳ khởi nghĩa Yên Thế những năm 1897-1909 chùa Lèo cùng nhiều các công trình văn hóa tôn giáo tín ngưỡng khác trong vùng được Đề Thám rất quan tâm cho tiền tu bổ tôn tạo làm nơi sinh hoạt văn hóa tôn giáo tín ngưỡng của nghĩa quân Yên Thế và nhân dân địa phương. Trải qua thời gian quần thể di tích này không còn được nguyên vẹn như xưa, cổng tam quan, ngôi đình trước chùa không còn nữa, nay chỉ còn lại ngôi chùa tọa lạc ở vị trí xưa trên đồi Lèo, xã Phồn Xương, huyện Yên Thế. Khuôn viên di tích rộng, đẹp cổ kính hơn bởi các cây xanh cổ thụ như cây đại, cây dã hương... Bình đồ kiến trúc ngôi chùa hiện nay hình chữ công gồm tòa tiền đường 5 gian 2 chái, nhà cầu 3 gian và tòa thượng điện 1 gian hai chái. Phần kiến trúc khung vì mái bằng gỗ lim chắc chắn, hệ thống các vì mái được liên kết theo kiểu chồng rường giá chiêng. Các cấu kiện kiến trúc được chạm khắc các đề tài hoa lá đơn giản nhưng còn đượm màu thời gian cổ kính. Trong chùa bài trí hệ thống tượng Phật đầy đủ theo dòng Trúc Lâm, các tài liệu, hiện vật ở chùa như bia đá, bát hương cổ thời Nguyễn, hệ thống tượng Phật, các cây cổ thụ trong di tích...đều có giá trị lịch sử văn hóa. Phong trào khởi nghĩa Yên Thế nổ ra 1884 các khu đồi rừng được nghĩa quân Yên Thế sử dụng làm đồn lũy, đình chùa làm trạm tiền tiêu, là cơ sở qua lại của nghĩa quân. Chùa Lèo nằm gần khu đồn Hố Chuối cách khoảng 1km về hướng Đông. Trong những lần đánh nhau với nghĩa quân Yên Thế ở đồn Hố Chuối (1890-1891) chùa Lèo là các chốt điểm đóng quân của Pháp để làm bàn đạp chỗ dựa tấn công vào đồn Hố Chuối. Chùa Lèo là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với nghĩa quân Yên Thế. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai giữa nghĩa quân Yên Thế với thực dân Pháp (1897-1909) chùa Lèo vẫn giữ vai trò vị trí tiền tiêu, quan sát các bước xâm nhập của thực dân Pháp vào khu căn cứ Phồn Xương. Là điểm liên lạc thư từ, qua lại thường xuyên của nghĩa quân. Chùa cũng là nơi đón tiếp khách, nơi tụ họp của những nghĩa quân yêu nước. Do vậy trong thời gian này chùa Lèo rất được Đề Thám quan tâm, cho tiền tu bổ tôn tạo. Cũng tại chùa Lèo đã xảy ra một chuyện đi vào truyền thuyết dân gian, nói lên tinh thần cảnh giác cao độ của Hoàng Hoa Thám. Thời kỳ thực dân Pháp muốn thương lượng hòa ước với nghĩa quân Yên Thế, nhưng nội bộ chúng còn nhiều mâu thuẫn. Để giải quyết một vấn đề còn giàng buộc với nghĩa quân, người đứng đầu tỉnh hẹn với Đề Thám cùng đến hội kiến ở một địa điểm gần Phồn Xương. Địa điểm ấy được ấn định là chùa Lèo. Hai bên không mang theo vũ khí. Quân tùy tùng ở lại phía sau. Trước hôm gặp, viên đại lý Pháp đến ngủ ở chùa Lèo, Đề Thám ngủ ở trong làng đó…Sau khi trăng lặn khoảng nửa đêm, trong rừng có những tiếng lao xao, chú ý lắm mới thấy. Mười hai người lính lặng lẽ bò qua cây rừng rậm rạp tiến về túp nều nơi Đề Thám đang nằm. Sớm hôm sau ở ngoài chùa tất cả mọi người đều tề tựu đông đủ. Người ta nhìn nhau khắc khoải đợi chờ. Chẳng thấy dấu hiệu gì cho thấy Đề Thám đã bị ám hại, người ta đành chia nhau đi tìm. Trên bãi cỏ bên làng, dưới chân lô cốt đã thấy 12 xác lính được xếp nằm cạnh nhau. Xác viên đội nằm ngoài cùng, một lưỡi dao cắm trên ngực cùng với tờ hòa ước. Còn các xác khác bàn tay chắp lại ôm một mảnh gỗ có đề chữ “phản”. Sau vụ này, Đề Thám đã cho dán khắp nơi bản tố cáo của nghĩa quân về sự phản bội của bọn giặc Pháp… Xưa chùa Lèo có nhà sư ở, về cái chết của Hoàng Hoa Thám còn có câu chuyện truyền thuyết liên quan đến vị sư trụ trì chùa Lèo. Đến năm 1913 nghĩa quân Yên Thế đã tan rã dần, Đề Thám lui về ở ẩn náu trong các khu rừng Yên Thế chờ dịp phát động gây dựng lại phong trào. Thời gian này thực dân Pháp tung tin trước dư luận đã giết được Đề Thám, chúng đem ba cái đầu để ở Nhã Nam và cho rằng trong đó có đầu của Đề Thám để mọi người đến nhận mặt. Nhưng thực tế mọi người lại cho rằng đó không phải là đầu của Đề Thám mà là đầu của nhà sư chùa Lèo. Không biết thực hư nhưng qua chi tiết đó cũng đủ thấy sự gắn bó mật thiết giữa Hoàng Hoa Thám với nhà chùa. Và truyền thuyết thì vẫn cho rằng nhà sư chùa Lèo đã chết thay cho Đề Thám. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2760 lượt xem
Xây dựng tinh thần chiến đấu quả cảm, gan dạ, không sợ hy sinh, quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ quê hương, đất nước. Đây là nhân tố cốt lõi, quan trọng nhất, quyết định đến thắng lợi trong trận Hố Chuối của Nghĩa quân. Đặc biệt, trong bối cảnh những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Nghĩa quân với vũ khí, trang bị thô sơ phải đương đầu với Đội quân Viễn chinh Pháp – một đội quân nhà nghề được trang bị vũ khí, trang bị và phương tiện chiến tranh hiện đại, nên việc xây dựng yếu tố chính trị tinh thần, quyết tâm chiến đấu cho Nghĩa quân có ý nghĩa quyết định. Nhận thức rõ điều đó, Đề Thám và các lãnh tụ Nghĩa quân đã giáo dục, bồi đắp tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc cho Nghĩa binh. Theo đó, trên nền tảng của một cuộc chiến tranh chính nghĩa, Đề Thám đã truyền thụ về nỗi thống khổ của người dân mất nước; chỉ rõ nguyên nhân khổ đau đều do sự tàn bạo của đế quốc Pháp xâm lược. Bằng thực tiễn, Ông chỉ cho mọi người thấy rõ bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của quân giặc; rằng chính quân Pháp đã bắn giết dân lành, đốt phá nhà cửa, ruộng vườn. Muốn cứu nước, cứu nhà phải nổi dậy đánh Pháp và Nghĩa quân của Ông thề giết giặc để bảo vệ nhân dân. Chính vì vậy mà cuộc khởi nghĩa Yên Thế nói chung, trận Hố Chuối nói riêng Nghĩa binh đã thể hiện tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm mãnh liệt mà địch không ngờ tới. Đó là khi địch bắn phá ác liệt vào đồn, nhưng các Nghĩa binh không nao núng, chờ giặc đến thật gần mới nổ súng tiêu diệt, khiến địch hoảng loạn, tháo chạy. Thậm chí, đợt tiến công thứ 3 (ngày 22-12-1890) địch hối thúc các toán quân Âu Phi dùng lưỡi lê xông vào công sự của ta, các nghĩa binh vẫn bình tĩnh, làm chủ trận đánh, vùng lên diệt địch khiến chúng bất lực, tổn thất nặng nề, buộc phải rút lui. Không chỉ bồi đắp lòng yêu nước, ý chí quyết tâm một cách thường xuyên, mà khi xảy ra các tình huống nguy hiểm, Đề Thám còn chủ động, bình tĩnh động viên Nghĩa binh chiến đấu. Điển hình là trận chiến đấu ngày 09-01-1891 khi đồn Hố Chuối bị hỏa lực địch bắn cháy, Đề Thám đã bắt loa động viên: “Hỡi những người lính trong quân đội trung nghĩa, trong đội quân bất khuất, trong đội quân tất thắng. Ta rất hài lòng về các ngươi! Cố gắng mà kháng cự. Quân tiếp viện đang đến. Các ngươi là vô địch”1. Liều thuốc tinh thần đó đã kịp thời động viên, cổ vũ Nghĩa quân trong đồn bình tĩnh hăng hái, kiên quyết chống giữ, còn lực lượng ở các pháo đài bất chấp cuộc pháo kích kéo dài nhiều giờ, cũng vẫn trụ lại vị trí chiến đấu; khi thời cơ đến (lúc bộ binh địch tiến gần), nhất tề xung phong ra khỏi công sự chiến đấu dũng mãnh, tiêu diệt phần lớn lực lượng địch, giữ vững trận địa. Sau này các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tại Hố Chuối, quân Pháp đã đối đầu với một đối thủ có quyết tâm chiến đấu cao đến bất ngờ.2. Tạo lập thế trận hiểm hóc, liên hoàn, vững chắc, bảo đảm cho phòng thủ, tiến công thuận lợi. Qua nhiều lần giao chiến với quân Pháp, Nghĩa quân đã nắm vững quy luật hoạt động, thủ đoạn tác chiến cùng những điểm mạnh, yếu của địch. Đó là, sợ đánh gần, nhất là khó xoay chuyển trong địa hình hiểm trở; dựa vào hoả lực pháo binh và khi thương vong tinh thần dễ sa sút, v.v. Nắm chắc điểm yếu chí tử đó, Bộ Chỉ huy tối cao Nghĩa quân chủ trương tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc tại khu vực rừng núi Yên Thế. Theo đó, tại một vùng trũng thấp của khu rừng Hữu Thượng bạt ngàn chuối dại, Nghĩa quân xây đồn Hố Chuối như một công sự nửa nổi, nửa chìm (nhằm hạn chế hỏa lực, phi pháo của địch) làm đại bản doanh. Để hỗ trợ cho đồn chính, Nghĩa quân còn thiết lập hai pháo đài phòng thủ (Bắc và Nam) cách Hố Chuối khoảng 100m tạo thế chân vạc, bảo vệ, hỗ trợ nhau rất linh hoạt. Ngoài ra, Đề Thám còn cử người thiết lập hệ thống đồn phòng thủ xung quanh Hố Chuối, như: đồn Hom, Hang Sọ, làng Nứa, làng Vàng,… cơ sở hậu cần ở Vòng Dông cùng hệ thống làng chiến đấu (Dương Sặt, Thế Lộc, Luộc Hạ, Cao Thượng) với nhiều chướng ngại vật hiểm trở. Nhờ có thế trận vững chắc, Nghĩa quân có thể phát hiện, đánh địch từ xa đến gần, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch trước khi chúng đến được mục tiêu chủ yếu. Đặc biệt, tại Hố Chuối, với thế trận độc đáo, hiểm hóc, rừng đã trở thành vật cản cả hỏa lực và hạn chế tầm nhìn của địch; trường hợp áp sát chân đồn thì bị bắn trả từ các lỗ châu mai hiểm hóc, v.v. Nét độc đáo của thế trận này còn được thể hiện bởi hệ thống giao thông hào chìm (không có bờ) nối liền các điểm với nhau và thông ra suối Gồ về phía sau, tạo thế cơ động linh hoạt, vừa có thể đánh địch ở chính diện, vừa có thể tiến công vào bên sườn, phía sau đội hình của chúng. Điều này đã giải thích vì sao địch tập trung quân đông, tinh nhuệ, với nhiều vũ khí hiện đại, tiến công từ nhiều hướng, nhiều ngày, nhưng cả 04 cuộc tiến công đều không thành công. NGUỒN: Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Bắc Ninh 2818 lượt xem
Đồn Phồn Xương nằm ở trung tâm thị trấn Cầu Gồ. Nơi đây Đề Thám và bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở lâu nhất chỉ đạo đường lối chiến lược chiến thuật của nghĩa quân Yên Thế. Đồn Phồn Xương cách tỉnh lỵ Bắc Giang 30 km về phía Tây; từ thành phố Bắc Giang, xuôi theo trục đường quốc lộ 1A (cũ) qua cầu sông Thương, rẽ phải theo tỉnh lộ 398 tuyến Bắc Giang-Cầu Gồ. Đồn Phồn Xương còn có tên gọi Đồn Gồ, Đồn Cụ nằm ở phía Nam của quả đồi cao gần 20m cách suối Gồ gần 800m về phía Nam. Nay quả đồi này gọi là đồi Phồn Xương hay đồi Bà Ba thuộc thị trấn Cầu Gồ. Đây là một căn cứ có quy mô lớn, cấu trúc khác với đồn Hố Chuối và các đồn khác. Đồn có bình đồ kiến trúc gần giống hình chữ nhật nằm chạy dọc theo hướng Bắc Nam, có diện tích chừng hơn một mẫu Bắc Bộ gồm hai vòng thành. Vòng thành ngoại bắt đầu từ sườn đồi phía Đông chạy vòng ôm lấy chân đồi lên tới đỉnh đồi phía Bắc thành hình vòng cung bảo vệ cho thành nội dài 140m, dày 0,80m và cao 4m. Dãy tường thành nội nằm trên đỉnh ngọn đồi gần giống hình chữ nhật. Tường thành nội mặt Đông dài 71m, mặt Bắc dài 85m. Tường đắp bằng đất nện, chân dày 2m, cao 3m và trên mặt còn rộng 1m. Bên trong tường thành có 3 cấp khác nhau có thể đứng hoặc quỳ đều bắn được. Xung quanh tường đều có lỗ châu mai. Mặt tường phía ngoài đắp dốc thoai thoải như mái nhà. Đồn Phồn Xương có 3 cổng: Cổng chính trông về hướng Đông còn hai cổng phụ ở phía Nam và phía Bắc. Hai cổng phụ đều thông ra với những cánh rừng rậm xung quanh. Đặc biệt cổng phía Bắc nối liền với cánh rừng của nửa đồi còn lại. Hai cổng phụ rộng 1,50m hiện nay không còn nguyên vẹn, cổng chính cách bờ tường phía Bắc là 15m, rộng 2m có 4 bậc lên xuống. Bên trong cổng chính còn một trạm gác nằm ở sườn tường phía Bắc hình vuông mỗi cạnh 2m. Bên trong cửa chính có hai lớp tường đất bảo vệ và chọc nhiều lỗ châu mai. Các cổng đều có hai lượt cửa, bên ngoài cổng cánh, bên trong cổng và đều làm bằng gỗ lim. Đồn được bố trí ngoài cùng là các bốt gác, tiếp theo là các đồn phụ, hệ thống giao thông hào rồi lại đến vòng thành bao bọc. Khoảng cách giữa hai vòng thành chỗ rộng nhất là 20m, hẹp nhất là 10m. Trong vòng thành là một không gian rộng bao gồm hệ thống nhà ở, nhà khách, nhà kho… tất cả đều là nhà tranh vách đất trộn rơm. Chỉ trừ chiếc nhà vuông tiếp khách là được xây bằng gạch. Lần lượt từ phía Bắc xuống phía Nam thành là nhà ở của Hoàng Hoa Thám và Bà Ba, nhà có 5 gian chạy theo hướng Tây Đông. Nhà thứ hai hình vuông bốn mặt để trống dùng làm nơi họp bàn của Hoàng Hoa Thám với tướng lĩnh và tiếp khách. Nhà tiếp theo gồm hai dãy nằm sát hai cạnh Tây Đông của thành, là nhà ở của nghĩa quân. Tiếp theo gồm 8 gian nhà bếp và chuồng ngựa nằm sát ở cạnh phía Nam của thành chạy theo hướng Đông Tây, tiếp nữa là cột đèn và cột cờ. Kiến trúc đồn Phồn Xương là một kiểu kiến trúc đặc biệt. Nó không những đáp ứng được yêu cầu là một đồn lũy thành trì mà nó còn giải quyết linh hoạt việc cơ động chiến đấu và đáp ứng được cả yêu cầu là một sở chỉ huy, nơi giao dịch nghĩa quân. Trải qua thời gian mưa nắng, hệ thống thành lũy và các công trình nhà ở trong thành được đắp bằng đất nện cũng dễ bị bào mòn. Nay những công trình nhà ở trong thành không còn, phần tường thành cũng không còn giữ được nguyên vẹn như xưa. Riêng đoạn mặt tường thành phía Đông còn giữ được nhiều nét kiến trúc cũ. Trên tường thành còn những vết đạn lỗ châu mai khá rõ. Trong thành hiện xây đền thờ Bà Ba. Hằng năm, vào các ngày 16 tháng 3 dương lịch lễ hội Yên Thế lại diễn ra trên quần thể di tích này. Khoảng cuối những năm 80 của thế kỷ XX, con gái của cụ Hoàng Hoa Thám là bà Hoàng Thị Thế có về đây và khi mất, bà được chôn cất tại đây, trên tấm bia mộ chỉ ghi dòng chữ thật giản dị: "Bà Hoàng Thị Thế, sinh năm 1901, mất 9.12.1988". Có thể nói Phồn Xương chính là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Tại đây nghĩa quân đã chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc tiến công trên quy mô lớn của thực dân Pháp do đại tá Vát-tay chỉ huy ngày 29-1-1909. Với những giá trị lịch sử, văn hóa đó, đồn Phồn Xương là một trong 23 điểm di tích được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 Thủ tướng Chính phủ. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2883 lượt xem
Nói đến Song Vân phải nói đến khu di tích đình Vồng với lễ hội dân gian truyền thống điển hình của vùng đất Tân Yên. Khu di tích đình Vồng gồm một quần thể di tích cổ với đầy đủ các loại hình, như đình Vồng, chùa Vồng, đền Vồng, nghè Vồng, ngòi Vồng và cầu Vồng. Ngày 15 tháng giêng này hội Đình Vồng lại diễn ra. Sau đây là bài giới thiệu về khu di tích này cùng Lễ hội truyền thống hàng năm. Song Vân là vùng đất cổ đã ghi dấu ấn vang dội trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Đình Vồng xưa thuộc xã Vân Cầu, tổng Vân Cầu, phủ Yên Thế. Ngày nay, khu di tích này nằm trên phần đất của thôn Ngò, xã Song Vân, huyện Tân Yên. Theo các tài liệu còn ghi lại ở địa phương cho biết, Cầu Vồng xưa được xếp vào loại cầu đẹp, cầu hai nhịp uốn cong như cầu vồng, toàn bộ được làm bằng lim, kiến trúc theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” trên có mái và sơn đỏ toàn bộ. Cây cầu được dựng từ thời Mạc thế kỷ 16 nhưng nó đã bị tàn phá chỉ còn lại 2 mố cầu và con người cổ đã đi vào lịch sử với câu phương ngôn “ Trai cầu Vồng Yên Thế ”. Nó như một biểu tượng chung cho cả vùng Yên Thế Hạ nổi tiếng vũ dũng và thượng võ. Đình Vồng xưa có quy mô lớn, kiến trúc điêu khắc tinh xảo, tọa lạc trên một khu đất cao thoáng ở gần ngòi Vồng, và cầu Vồng. Đình gồm 5 gian xây dựng toàn bằng gỗ lim với hai hàng cột cái cao to, phần kết cấu gỗ như kẻ, xà trở lên đều được soi, chạm khắc với nhiều đề tài hoa văn phong phú. Trên bờ nóc đình là đôi rồng chầu mặt nguyệt, 4 bờ góc được đắp 4 con ly hoá, cuối bờ góc là 4 đao cong vút làm cho công trình vừa bề thế, vừa bớt phần thô cứng. Đình ngoảnh mặt nhìn về hướng Nam, phía sau là rừng Vồng với nhiều cây cổ thụ, trước đây khu vực này là rừng nguyên sinh. Phía trước cửa đình là cơn ngòi Vồng uốn khúc, nước chảy quanh năm. Theo luật phong thuỷ, đình nằm trên một thế đất đẹp, nơi hội tụ được những linh khí của đất trời sông núi. Chùa Vồng được dựng cùng hướng với đình Vồng, kiến trúc theo kiểu chữ công gồm tiền đường 5 gian 2 chái, 4 mái đao cong. Thiêu hương 4 gian nối với phật điện 3 gian 2 chái cũng 4 mái đao cong. Chùa Vồng dựng sau ngôi đình Vồng tạo nên bố cục “ Tiền thần hậu Phật ”. Chùa được khởi dựng từ thời Lê và được tự dựng vào thời Nguyễn. Phía trước chùa Vồng có cây hương đá và cây thị cổ thụ có tuổi cùng với thời gian khởi tạo ngôi chùa Vồng tạo nên khung cảnh thâm nghiêm cổ kính. Đền Vồng cũng nhìn ra con ngòi Vồng và Cầu Vồng gồm 1 gian 2 chái 4 mái đao cong. Bên trong đền có khám thờ, ngai thờ, bài vị cùng các đồ tế khí khác. Nghè Vồng ngày nay chỉ còn 1 hậu cung nhỏ 2 gian giáp ngọ và cầu Vồng. Nghề được nhân dân dựng lên để thờ 18 vị quận công họ Dương - những người có nhiều công lao với dân với nước cùng được thờ ở đình Vồng. Lễ hội đình Vồng là một lễ hội có truyền thống lâu đời. Nơi đây còn bảo lưu được nhiều nét văn hoá dân gian độc đáo. Trung tâm lễ hội xưa được tổ chức tại khu di tích đình Vồng với quy mô lớn, lực lượng chính là 4 xã Song Vân, Việt Ngọc, Ngọc Vân, Lam Cốt. Xưa hội đình Vồng được tổ chức vào ngày 15 tháng giêng và ngày 9,10,11 tháng 9 âm lịch. Trong ngày hội, người ta tổ chức tế lễ, rước sách và các môn thi, các trò chơi dân gian. Đám rước trong hội đình Vồng được diễn ra với nghi thức trọng thể. Ngày 15 tổ chức rước 17 đạo sắc từ nhà để sắc ở làng Vân Cầu về đình. Đi đầu đoàn rước là một người đóng tướng. Người này phải được lựa chọn kỹ theo từng năm. Khi rước sắc về đến đình thì tổ chức tế lễ long trọng. Trong hội đình Vòng xưa có tục tế ngựa rất uy nghiêm, có nhiều trò chơi, nhiều môn thi đấu thể thao dân gian giàu tính thượng võ như: Múa võ, vật, đua ngựa, bắn cung, bắn nỏ, bắn phết và nhiều trò chơi dân gian chọi gà, thi thả diều, thi thổi cơm, chạy chữ...Hội đình Vồng được tổ chức long trọng, vui vẻ trong ba bốn ngày đêm. Ở hội đình Vồng ngoài việc diễn các tích trò còn tổ chức thi hát đối đáp giữa các gánh hát trong vùng và các nơi khác đến biểu diễn khiến không khí lễ hội càng thêm hấp dẫn. Lễ hội đình Vồng còn góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các thế hệ con cháu hôm nay phải biết giữ gìn đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của các bậc tiền nhân để lại. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Ninh 2788 lượt xem
Làng Trũng, thuộc xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên là một làng cổ gắn liền với biết bao kỷ niệm về người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Nơi đây, xưa kia từng là nơi đánh trận giả chơi trốn tìm của Hoàng Hoa Thám, nay lại là nơi tôn thờ, tưởng niệm ông- người có công lớn với quê hương Bắc Giang, với đất nước Việt Nam. Mỗi khi nói đến làng Trũng, người ta thường nhắc đến khu di tích lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám. Khu di tích cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía tây-bắc. Đây là quần thể di tích bao gồm các công trình như: đình, đền, chùa, điếm, nơi ở và khu mộ thân tộc Hoàng Hoa Thám. Theo truyền miệng của các cụ địa phương được biết: Đình Trũng khi xưa được cụ Hoàng Hoa Thám xây dựng ban đầu ở Tân Châu (Trũng Ngoài). Sau đó cụ Thống Luận đã di chuyển đình về Trũng Trong, liền kề phía trước chùa Trũng. Đình xưa bao gồm toà tiền đình ba gian nối với hậu cung một gian tạo thành bố cục hình chữ đinh (J). Đình Trũng xưa có 2 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, để tỏ lòng thành kính và trân trọng đối với người anh hùng dân tộc, nhân dân địa phương đã tôn thờ ông ở trong đình cùng với Thành hoàng làng. Trải qua thời gian và chiến tranh, đình Trũng bị xuống cấp hư hỏng nặng. Nay chỉ còn nền móng ở phía trước chùa Trũng. Sau khi Hoàng Hoa Thám bị sát hại, để tỏ lòng biết ơn và thành kính đối với vị tướng tài ba, nhân dân làng Trũng đã xây dựng ngôi đền làm nơi tưởng niệm, ở gần kề bên khu di tích đình, chùa làng Trũng. Từ khi xây dựng cho tới nay, đền thờ được nhân dân thường xuyên quan tâm, tu sửa, mua sắm các đồ thờ, tạc tượng Đề Thám… để lưu truyền hậu thế. Đền thờ Hoàng Hoa Thám hiện nay ở phía trước khu di tích đình, chùa Trũng, ngoảnh nhìn hướng Đông Nam. Đền thờ Hoàng Hoa Thám gồm ba gian theo bố cục hình chữ nhất. Bên trong gian chính giữa bài trí một pho tượng Hoàng Hoa Thám được đúc bằng đồng cao 150cm, bên tường hồi trái treo một bức tranh của gia đình cụ Đề Thám và các con tại đồn Phồn Xương. Theo các nguồn tư liệu lịch sử cho biết: Hoàng Hoa Thám hay còn có tên gọi là Đề Thám. Cha là Trương Văn Thân, quê gốc ở làng Dị Chế, xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho có truyền thống thượng võ và yêu nước. Cả cha và mẹ đều tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn nên bị nhà Nguyễn sát hại. Lúc này, ông cải họ là họ Đoàn, tên Nghĩa và được ông chú nuôi dưỡng đem đi trốn khỏi sự truy lùng của triều đình và cải tên là Thiện. Quanh quẩn ở vùng Sơn Tây sợ không thoát được nên chú cõng cháu chạy về làng Trũng, xã Ngọc Châu, phủ Yên Thế ở. Một lần nữa cải họ là họ Hoàng và đặt tên mình là Quát, tên cháu là Thám. Từ đó dân làng Trũng vẫn cho là hai bố con chứ không ai biết đó là hai chú cháu. Vì nhà nghèo nên ông Quát phải cho cháu vào làm con nuôi nhà ông Lý trong làng, còn mình làm nghề thợ thêu kiếm sống. Mặc dù vậy nhưng quãng đời niên thiếu cho đến khi trưởng thành, Hoàng Hoa Thám đã gắn liền với những kỷ niệm của làng Trũng và vùng Yên Thế. Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm, sống trong một địa phương có nhiều thủ lĩnh nổi lên chống giặc và đóng giữ những nơi hiểm yếu đã ảnh hưởng không ít đến cuộc đời của Hoàng Hoa Thám. Chính vì thế mà dân trong vùng Yên Thế cho đến nay vẫn còn nhớ và kể khá rõ từng mẩu chuyện về thời niên thiếu cũng như lúc trưởng thành của Hoàng Hoa Thám. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2931 lượt xem
Trong hệ thống Di tích quốc gia đặc biệt của huyện Tân Yên, Đền Gốc Khế là một trong những di tích tiêu biểu. Di tích nằm gần ngã tư Nhã Nam, phía sau là Đồi Phủ nó liên quan mật thiết trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Di tích này xuất hiện muộn, chừng những năm đầu của thế kỷ XX. Khi mới được xây dựng, đền có quy mô vừa phải gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe. Theo thời gian trước sự tàn phá của thiên tai, chiến tranh, ngôi đền xuống cấp và được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Đền Gốc Khế có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 1 tòa tiền tế 3 gian và 1 gian hậu cung, kết cấu khung mái bằng gỗ, lợp ngói mũi, kèo kìm trốn cột, quá giang gác tường. Trong đền còn bảo lưu được một số đồ thờ tự như: Bát hương, mâm đài, cây đèn, hộp đựng trầu thờ bằng gỗ. Hệ thống tượng thờ trong đền là những pho tượng cổ bằng gỗ với lối tạo tác đặc trưng tượng thời Nguyễn. Do nằm ngay cạnh đình chùa Nam Thiên và trong khu vực Đồi Phủ nên trong cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, ngôi đền này lưu giữ nhiều sự kiện lịch sử trên vùng đất thượng du của Yên Thế xưa và Tân Yên ngày nay. Giai đoạn 1892-1894, đền Gốc Khế từng là địa điểm để tổ chức nhiều cuộc họp giữa những tướng lĩnh của Hoàng Hoa Thám như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối). Qua những cuộc họp này đã đi đến thống nhất đưa ra những sách lược, chiến lược quan trọng, mang tính quyết định nhằm đi đến một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi thực dân Pháp. Hàng năm, vào ngày 15, 16 tháng Giêng, nhân dân Nhã Nam tổ chức lễ hội tôn vinh Thánh Mẫu, và ghi nhớ công lao của Trần triều Đại vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời, lễ hội còn là hoạt động để tri ân các vị tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã anh dũng hy sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của nhân dân. Trong những ngày lễ hội có tổ chức tế lễ, rước sách cùng các trò chơi dân gian độc đáo và những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian phong phú, thu hút nhân dân ở khắp các vùng nô nức kéo về dự hội. Đền Gốc Khế, cái tên rất dân giã. Quy mô không lớn nhưng ẩn chứa nhiều điều thú vị và là chứng tích quan trọng trong một thời đoạn lịch sử của Nhã Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Ninh 2803 lượt xem
Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm, sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23km về phía Tây Bắc. Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23 km về phía Tây Bắc. Nghĩa địa Pháp được đặt trên một sườn đồi nhỏ xưa kia thuộc đất làng Lã ở Nhã Nam. Làng này đã bị quân Cờ Đen tàn phá phiêu dạt hết. Trong khu đất của nghĩa địa có nhiều mộ và được chia làm hai loại: Loại thứ nhất là mộ xây bằng đá khối vuông và chữ nhật. Đây là loại mộ dành cho sỹ quan. Loại thứ hai là mộ binh lính đắp đất có bia đá. Trong số các mộ sĩ quan Pháp đó có hai ngôi mộ được xếp bằng các phiến đá xanh vuông và các phiến đá chữ nhật trên đó có khắc chữ Pháp. Tất cả các ngôi mộ của nghĩa địa này nay đã bị san phẳng không còn dấu tích mộ. Chỉ còn các phiến đá to nặng vương vãi trong làng bên đồi. Ớ Bảo tàng Bắc Giang đã sưu tầm được một tấm bia ghi rõ người chôn ở đây là Nguyễn Văn Tố bị chết ở Hố Chuối (1890-1891), tấm bia nhỏ này cho biết đó là binh lính Việt được chôn đắp mộ đất. Những khối đá xanh ốp mộ rất lớn và nhiều kích cỡ. Có hai khối đá vuông trên đó người ta đã tạc hai vòng tròn ở hai bên tượng trưng cho cành ô liu được bó bằng một băng lụa. Đó là biểu tượng của người Pháp dành cho người đã chết vì đất nước Pháp. Mặt chính diện có khắc nhiều chữ ghi tên tuổi, lý do của kẻ chết trận ở Yên Thế. Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ trở thành địa điểm ghi dấu những sự kiện mà trong lịch sử Yên Thế - Tân Yên ngày nay không thể không nhắc tới. Nó là một bằng chứng góp phần làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu thêm về phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo và hiểu về thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nơi đây chính quyền địa phương đã cho dựng bia ghi dấu sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở bên đồi Phủ để giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Ninh 2640 lượt xem
Đình làng Chuông là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lớn của làng Chuông xưa, nay là thôn Tiến Phan, thị trấn Nhã Nam. Theo các tài liệu, hiện vật còn lại trong di tích, các nhà nghiên cứu đã xác định đình làng Chuông là một ngôi đình cổ được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Ngôi đình tọa lạc trên khuôn viên đất rộng, cao thoáng ở trung tâm làng Chuông. Bố cục mặt bằng di tích được làm theo lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 7 gian tiền đình và hai gian hậu cung, ngoảnh hướng Nam. Đình tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Trấn Giang Đô Thống. Ngoài ra đình cũng thờ Nàng Giã Đại Thần - một vị nữ tướng của hai Bà Trưng. Sau này vào thời Nguyễn, đình còn thờ một vị phúc Thần là người con của quê hương Nhã Nam, đó là ông Nguyễn Đức Hiên đã công đức tiền của tu sửa đình. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai tại đình làng Chuông. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giỏi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp và bè lũ tay sai phải kinh hoàng, khiếp sợ khi nhắc đến tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giỏi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất. Đình làng Chuông vừa được trùng tu và khánh thành vào ngày 26.10.2023. Bố cục hình chữ đinh, với kết cấu tiền đạo hậu đốc, đại bái 5 gian, hậu cung 3 gian cùng các hạng mục phụ trợ khác. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Ninh 2783 lượt xem