Khu du lịch Đồ Sơn, Hải Phòng nổi tiếng với những bãi tắm lý tưởng và phong cảnh hữu tình. Nhưng ít người biết rằng trên đỉnh Long Sơn (phường Ngọc Xuyên), ngọn núi đầu tiên trong 9 ngọn chạy dọc bán đảo Đồ Sơn còn có một di tích văn hóa lịch sử với cả nghìn năm tuổi - đó là tháp Tường Long. Tháp Tường Long (còn gọi là tháp Đồ Sơn) xây thời Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này được xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000 m2, thuộc địa phận phường Vạn Sơn, thị xã Đồ Sơn. Bốn góc tháp đều nghiêng vào tâm 190. Lòng tháp rỗng và là nơi đặt pho tượng A di đà. Công trình được xây bằng gạch và đá có kích thước khác nhau. Ngoài loại gạch xây, còn có loại gạch ốp ngoài vỏ tháp với nghệ thuật trang trí độc đáo như hoa sen, hoa cúc, hoa chanh. Cách trang trí này biểu hiện nghệ thuật điển hình thời Lý. Theo sách "Đại Việt sử lược" thì năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây tháp. Sau ngài nằm mộng thấy rồng vàng bèn ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là "Thấy rồng vàng hiện lên" để ghi nhớ điềm lành. Lại có người cho rằng cửa biển Đồ Sơn là một trong những cái nôi tiếp nhận cho dựng tháp ở đây để thờ Phật. Khi xưa, có thể nơi đây còn là một đài quan sát nằm trong hệ thống "truyền đăng". Mỗi khi có biến, các trạm quan sát ven biển liền đốt cỏ khô cho khói bay lên trời, truyền tín hiệu báo động về kinh thành. Qua những di vật còn lại thì thấy rằng tháp Tường Long được xây cùng thời với tháp Báo Thiên ở kinh thành Thăng Long (nay là khu vực Nhà hát lớn Hà Nội). Theo Đại Nam nhất thống chí", tháp cũ Đồ sơn cao 100 thước, dựng trên một khu đất rộng 1000m2, có 9 tầng, cửa mở ra hướng tây. Một thước ta dài 0,45m, như vậy tháp cao khoảng 0,45m, lại đặt trên ngọn núi cách mặt biển 100m nên ngọn tháp này thuộc loại cao nhất so với các tháp ở Việt Nam thời bấy giờ. Tháp Tường Long nhiều lần được tu tạo và khôi phục trong triều Trần và triều Lê, nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), triều đình nhà Nguyễn đã cho phá tháp để lấy gạch xây thành Hải Dương. Điều này chứng tỏ tháp Tường Long xưa vô cùng quy mô, bề thế.Từ vị trí tháp Tường Long có thể thấy biển với những con tàu ra khơi vào lộng lẫy đế đánh bắt cá mang về nguồn hải sản tươi ngon phục vụ cho du khách, thấy thị xã Đồ Sơn cùng làng mạc, đồng ruộng xanh tươi, lại hiểu người xưa sao khéo chọn địa điểm xây tháp. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng
Hải Phòng 2699 lượt xem
Ngôi nhà số 1 ngõ 42 Mê Linh, phường An Biên, quận Lê Chân, Hải Phòng là cơ quan bí mật của Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Hải Phòng năm 1927 - 1929, cơ quan bí mật của Đông Dương Cộng sản Đảng Tỉnh ủy Hải Phòng thời kỳ 1929 - 1930. Ở đó một thời đã là cơ sở hoạt động của các đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người chiến sĩ ưu tú của Đảng, người con của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Hải Phòng. Sau khi dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức ở Quảng Châu, tháng 9 năm 1927, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh về nước hoạt động và được Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách Mạng đồng chí hội chỉ định là Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Hải Phòng. Đầu năm 1928, đồng chí thực hiện Vô sản hoá và mở lớp huấn luyện, viết báo giác ngộ quần chúng cách mạng, đấu tranh chống áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Tháng 6/1929, chi bộ Đông Dương Cộng sản được thành lập. Tháng 9/1929 tại địa điểm trên (1/42 Mê Linh), hội nghị của những thanh niên cộng sản tiêu biểu quyết thành lập tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng Hải Phòng. Sau hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản Đảng ở Việt Nam (03/02/1930), đồng chí Nguyễn Đức Cảnh với cương vị Xứ uỷ Bắc Kỳ trở về củng cố Đảng bộ Hải Phòng. Nhờ có đường lối đúng đắn của Trung ương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Đảng bộ Hải Phòng đã phát động được quần chúng đấu tranh sôi nổi, liên tục. Năm 1929, tên Đốc lý Hải Phòng đã tuyên truyền, xuyên tạc nói xấu, bôi nhọ lý tưởng cao cả của những người cộng sản, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã viết bài bóc trần luận điệu xuyên tạc của tên thực dân, đồng thời thông qua đó giác ngộ quần chúng nhận rõ bộ mặt nham hiểm của chúng và kêu gọi quần chúng ủng hộ những người cộng sản vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Tại ngôi nhà này, còn lưu giữ một số di vật (phục chế) mà đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã từng dùng như: bàn làm việc, tủ, giường gỗ. Hàng năm, ngôi nhà 1/42 Mê Linh được Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng chăm lo tu bổ. Đó là nơi ghi dấu một thời kỳ hoạt động bí mật của Đảng. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của Đảng, người Bí thư đầu tiên, người con quang vinh của giai cấp công nhân và nhân dân Hải Phòng ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ. Ngày nay, tại số 124 Nguyễn Đức Cảnh còn đặt một tấm bia tưởng niệm đồng chí. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng
Hải Phòng 2543 lượt xem
Di tích chùa Mõ - Địa điểm du lịch tâm linh Hải Phòng nằm tại Xã Ngũ Phúc, thuộc huyện Kiến Thụy, địa phận thành phố Hải Phòng Tương truyền, chùa Mõ thờ Quỳnh Trân công chúa, con gái của vua Trần Thánh Tông, đồng thời cũng là người có công khai hóa mảnh đất này khi lựa chọn nơi đây để lập am, chiêu mộ dân đến khai hoang, cùng nhau xây dựng. Ngôi chùa mang một vẻ đẹp cổ kính, tĩnh lặng bên năm tháng cùng với cây gạo cổ thụ đã đứng sừng sững hơn 720 năm, được công nhận là cây di sản Việt Nam. Vào năm 1991, Chùa Mõ đã được công nhận như một Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Hải Phòng 2513 lượt xem
Khu di tích chùa Đỏ nằm tại Đường Lê Lai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng Chùa Đỏ là tên thường gọi của ngôi chùa cổ Linh Độ Tự. Sở dĩ chùa có cái tên Linh Độ vì đây là nơi mà dân làng lập nên ở khu bãi bồn cao gần bờ sông, với mong muốn thờ Phật, cầu Như Lai siêu độ cho các vong linh xấu số trôi dạt vào bờ sông ở đây. Theo người dân nơi này, chùa Đỏ là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất thành phố hoa phượng đỏ. Ngôi chùa còn thu hút khách hành hương và tới vãn cảnh khi sở hữu kiến trúc cổ diêm chồng đấu có 3 tầng 20 mái, cao 26m - kiến trúc độc đáo có một không hai trong lịch sử kiến trúc chùa chiền trên đất nước Việt Nam. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Hải Phòng 2792 lượt xem
Khu di tích Bạch Đằng Giang ở Thủy Nguyên, Hải Phòng rộng 20ha, nằm trong quần thể danh thắng Tràng Kênh được công nhận năm 1962. Ba trận thủy chiến đó là, trận Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938, trận Lê Hoàn đánh tan quân Tống năm 981 và trận Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Nguyên Mông năm 1288. Vĩ đại là thế nhưng với những di sản còn lại vẫn chưa đủ để thể hiện tầm vóc của những chiến thắng đó. Nhận thức được những giá trị to lớn ấy, từ năm 2008 những người có tâm huyết đã quyết tâm xây dựng lại quần thể ghi dấu ấn hồn thiêng sông núi nước Nam. Cổng vào di tích là vườn đá cuội và trụ đá cao chừng 5m, 4 mặt đều khắc chữ, mặt chính giữa khắc câu thơ “Giang san vượng khí Bạch Đằng thâu”, 3 mặt còn lại tán dương công trạng của ba bậc tiền nhân trong các trận thủy chiến. Quần thể còn nhiều khu khác như đền Bạch Đằng Giang thờ Đức Ngô Quyền Vương, người khai sinh trận địa cọc Bạch Đằng, đánh thắng quân Nam Hán năm 938, chấm dứt 1117 năm Bắc thuộc, mở ra nền văn minh Đại Việt. Đền Tràng Kênh Vọng Đế thờ Đức Vua Lê Đại Hành, năm 981 đã tái tạo lại địa cọc của Ngô Quyền để đánh Tống bình Chiêm, đưa Đại Cồ Việt ngang hàng với Đại Hán. Linh từ Tràng Kênh thờ Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông, đỉnh điểm là chiến thắng Bạch Đằng 1288, mở ra nền văn minh Đông Á rực rỡ. Cả ba ngôi đền đều được thiết kế theo kiến trúc cổ với sự kết hợp kỳ công giữa gỗ và đá tự nhiên. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh là địa điểm cuối cùng trong tứ linh từ của khu di tích Bạch Đằng Giang. Đây là nơi đầu tiên ở Hải Phòng lập đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Người luôn trong trái tim của mọi người dân Việt. Trúc Lâm tự Tràng Kênh, đây là ngôi chùa mô phỏng theo chùa Đồng ở Yên tử. Chùa thờ Phật Tổ Như Lai, Đạt Ma và Bồ Tát, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dưới chân chùa là tượng Bạch Ngọc 18 vị La Hán và cây đa cổ thụ trên trăm tuổi. Chùa là một trong những nơi cao nhất của khu di tích Bạch Đằng Giang, có thể quan sát bao quát không gian rộng rãi, nhìn ra dòng sông Bạch Đằng, dãy Đông Triều hùng vĩ. Đặc biệt trong những ngày trời quang du khách cũng có thể nhìn thấy danh thắng Yên Tử. Đền thờ Thánh Mẫu trong khu di tích thờ Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên, Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn, Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ. Trong đền còn có hương án và pho tượng thờ tự Ngũ Vị Tôn Ông, Tam Vị ông Hoàng, Đức Nam Hải Thần Vương và Mẫu Sơn Trang. Trong khu di tích còn có khu nhà bảo tàng trưng bày hiện vật cọc Bạch Đằng được bảo tồn nguyên trạng; sơ đồ diễn biến các trận chiến trên sông Bạch Đằng; các di chỉ khảo cổ đồ gốm các thời kỳ Lê, Trần..; lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Hải Phòng 3092 lượt xem
Đình Chí Linh nằm ở thôn Chí Linh, xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Căn cứ vào “Thần tích bi ký” khắc dựng năm Tự Đức 20 (1867) hiện còn lưu giữ tại đây cho biết rằng, đình Chí Linh thờ 3 vị Thành hoàng làng gồm: Cao Sơn Quốc Trạng Đại Vương (tức Cao Hiển, Thánh Cả); Đương Cảnh Thành Hoàng Quảng Bác Đại Vương (tức Phạm Cường, Thánh Hai); Đương Cảnh Thành Hoàng Hùng Duệ Đại Vương (tức Phạm Úy – Thánh Ba) Theo thần tích, Cao Sơn Quốc trạng Đại Vương là nội tộc Tản viên Quốc vương thứ hai thời Hùng Vương thứ 18 tên là Cao Hiển tinh thông văn võ, đã “âm phù” giúp vua Lý Thái Tông đánh giặc cứu nước. Cao Sơn Đại Vương hóa thân thành một vị tướng tài của vua Lý cầm quân đi đánh giặc. Đến Ba Gia Trang, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương gặp 2 anh em sinh đôi, người bản trang là Phạm Cường, Phạm Úy là con ông bà Phạm Chân và Đào Thị Quý. Thấy hai anh em Phạm Cường, Phạm Úy văn võ song toàn, tài năng xuất chúng, Hiển Công liền chiêu mộ làm bộ tướng của mình. Sau khi đánh trận bến Động (nay là Bình Than – Lục Đầu) giành chiến thắng trở về, qua Ba Gia Trang khao quân, Hiển Công và 2 bộ tướng Phạm Cường, Phạm Úy hóa cùng một ngày. Ghi nhớ công ơn của 3 vị tướng tài, vua Lý Thái Tông xuống chiếu cử hành tang lễ trang trọng và cho dân sở tại lập miếu để phụng thờ. Đình Chí Linh được xây dựng vào khoảng thời Hậu Lê (Thế kỷ18), được trùng tu và tôn tạo vào thời Nguyễn qua các năm 1848, 1856, 1859, 1867, 1911. Kiến trúc ban đầu theo kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung xây theo hướng tây. Đến năm Khải Định nguyên niên (1916) nhân dân tiếp tục xây thêm 5 gian tiền tế và hai giải vũ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong những ngày lễ hội. Trải qua nhiều biến động lịch sử, đình Chí Linh đến nay còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như bộ tượng “Tam vị thành hoàng” từ thời Nguyễn, 9 đạo sắc phong từ thời vua Thành Thái đến vua Khải Định, 16 tấm bia công đức từ thế kỷ 18, 19… Đình tọa lạc trên một gò đất cao rộng, phía trước dòng sông Thái Bình cuộn chảy về xuôi, phía sau liên tiếp ao hồ chạy dài, nguyên là một nhánh sông cổ sau nhiều lần đắp đê còn lại bao bọc xung quanh di tích tạo thành một hàng rào tự nhiên. Cảnh quan thiên nhiên hài hòa, ngoạn mục. Đình Chí Linh là nơi thờ những anh hùng gắn liền với đời sống tín ngưỡng của nhân dân xã Nhân Huệ, hun đúc truyền thống yêu nước của dân tộc. Lễ hội đình Chí Linh diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, lễ hội diễn ra trong 03 ngày, trong đó ngày mùng 10 là chính hội . Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hóa tâm linh và những kiến trúc truyền thống, Đình Chí Linh đã được Bộ Văn Hóa Thông tin xếp hạng Quốc gia năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Phòng 3165 lượt xem
Đền Quốc Phụ là một trong tám di tích thuộc “Chí Linh bát cổ” nổi tiếng được nhiều sử sách ghi nhận. Trước kia đền thuộc xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Nay di tích thuộc thôn Nẻo, xã Chí Minh, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đây là đền thờ Nhập nội Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn – một trong những danh tướng kiệt xuất của nhà Trần, tài đức vẹn toàn, hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trần Quốc Chẩn là con trai thứ của Trần Nhân Tông, em của Thái tử Trần Thuyên, người sau là Trần Anh Tông. Ông là một nhân vật chính trị, quan viên và là hoàng thân của triều đại nhà Trần dưới thời trị vì của các vua Anh Tông và Minh Tông, được đánh giá là một trong những nhân vật chính trị kiệt xuất, một người tài năng nhưng kết cục cuộc đời lại đầy oan khuất. Trần Quốc Chẩn bị kết tội phản nghịch và bị bỏ đói đến chết. Việc ông qua đời để lại rất nhiều chỉ trích của các sử gia đối với Trần Minh Tông. Đến năm Giáp Thân (1341), thời Trần Dụ Tôn, vụ án Trần Quốc Chẩn được minh oan hoàn toàn. Triều đình phục chức: Nhập nội Quốc Phụ Thượng Tể cho Trần Quốc Chẩn, trả lại phẩm giá cho người đã khuất. Đền Quốc Phụ được lập sau khi ông được minh oan, khôi phục danh dự, chức tước. Đền thờ được xây dựng từ ngôi nhà cũ của ông nên còn gọi là Thượng tể cổ trạch (tức là nhà cổ của quan Thượng tể). Đền đều được các triều đại phong kiến sau này ban sắc phong. Di tích được xây dựng trên gò đất cao giữa cánh đồng lúa chạy dài theo hướng Bắc – Nam. Theo thuyết “phong thuỷ” đền Quốc Phụ có “Kim Xà” (Rắn Vàng): phía trước có đường ra bến đá ven sông Kinh Thầy, bên trái là cánh đồng Lạng Trì và Ao Vả, tục truyền đây là nơi tắm gội của Trần Quốc Chẩn, bên phải có cánh đồng Giải Phướn, tại đây có di tích Đống Đỏ, có nhiều đống son tự nhiên và phía sau là cánh đồng Đống Lăng. Năm 1951, giặc Pháp từ bốt Trung Hà (Nam Hưng – Nam Sách) đã nã pháo vào khu đền chính hòng tiêu diệt cơ sở bí mật kháng chiến của ta làm nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, chỉ còn lại một phần Hậu cung và một số đồ thờ được nhân dân cất giấu từ năm trước. Năm 1953 di tích bị sụp đổ hoàn toàn. Đến năm 1958, nhân dân địa phương tiếp tục vận động công đức xây lại Hậu cung trên nền móng cũ để ổn định việc sinh hoạt tín ngưỡng, tiếp tục tôn vinh người có công với đất nước. Năm 1997 – 1998, thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ và nhân dân, được sự nhất trí của các cấp và các ngành chức năng, UBND xã đã tổ chức phát động công đức, huy động mọi nguồn lực tại địa phương khôi phục lại đền Quốc Phụ. Công trình đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn không quá 60 ngày đêm. Đền được xây dựng theo kiểu chữ nhị gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, cùng một số hạng mục cổng tam quan, sân đền… Riêng 5 gian tiền tế được dựng bằng khung nhà gỗ cổ ở Hưng Yên. Toàn bộ gian tiền tế và hậu cung được xây tường bao, cột gỗ đỡ xà gồ, lợp ngói đỏ. Đền Quốc Phụ: Ghi nhận công lao của Trần Quốc Chẩn, triều đình đã giao cho bản xã sửa lại ngôi nhà cũ ở quê ông tại Kiệt Đặc, Chí Linh làm đền thờ. Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến đều sắc phong cho Trần Quốc Chẩn và cho phép địa phương theo trước phụng thờ, tôn vinh người có công với đất nước. Căn cứ vào nội dung giá trị lịch sử của di tích và danh nhân, đền Quốc Phụ đã được Bộ Văn hoá - Thông tin ra quyết định số 15/2003/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 14/4/2003 xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo quy định của Luật Di sản văn hoá. Đây là di tích thứ 127 của tỉnh Hải Dương được xếp hạng bảo vệ. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Phòng 2921 lượt xem
Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du, hiệu là Diệu Huyền, tên vua ban là Tinh Phi tức Sao Sa, bà sinh ra tại xã Kiệt Đặc (nay là phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) Ngọc Toàn là người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh trác việt và đức độ hơn người. Bà sinh vào cuối thế kỷ 16 trong một gia đình hiếu học. Ngay từ thuở thiếu niên bà đã tỏ ra có bản lĩnh và quyết đoán, được gia đình mời thầy họ Cao về dạy học. Ngọc Toàn càng lớn lên nhan sắc càng tuyệt thế, thông minh hơn người, có chí khí. Năm Quang Hưng 15 (Mạc Bảo Định nguyên niên) quân của triều đình Lê Trịnh chiếm được Thăng Long, quân Mạc rút về phía Đông thuộc trấn Hải Dương. Đầu Năm Quang Hưng 16 (1593) quân Lê Trịnh tấn công vùng Nam Sách, nhà Mạc thất thủ phải rút khỏi Hải Dương, chạy lên Cao Bằng lập căn cứ...Năm đó, Nguyễn Thị Duệ 20 tuổi cùng cha chạy theo nhà Mạc lên Cao Bằng. Tuy phải chạy loạn, bà vẫn chăm chỉ học hành thể hiện một người có chí lớn. Sau khi xây thành, đắp lũy ổn định vị thế ở Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi hội kén chọn nhân tài, sỹ tử ứng thi khá đông. Khoa thi Bính Thìn Năm 1616, Nguyễn Thị Duệ đã đóng giả trai đi thi cùng với thầy giáo của mình. Sau khi chấm bài khớp phách bà được điểm cao đỗ đầu, thầy giáo của bà đỗ thứ hai. Cảm kích trước tài năng của người học trò ưu tú của mình, ông nói: “ Mầu xanh từ màu lam mà ra nhưng đẹp hơn màu lam”. Khi vào dự yến vua Mạc thấy diện mạo giống nữ, xét hỏi biết được sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và lấy làm vợ phong làm Tinh Phi đặt tên là Sao Sa. Sắc đẹp của Nguyễn Thị Duệ thiên hạ thật khó ai bì, dưới con mắt của Chúa Mạc nàng Duệ là “ngôi Sao Băng trên trời sa xuống”. Khi quân Lê Trịnh tiến đánh Cao bằng, quân Mạc đại bại, bà ẩn vào trong hang núi, bị quân Trịnh bắt được đưa vào tiến Chúa, bà liền được quý mến và trọng dụng. Nhân dân xã bà từ trên chí dưới, đã được cảm tình của bà, lại chịu ơn ban ngoại lệ, nên đều một lòng kính trọng tôn làm hậu thần. Bà rộng xem kinh thánh, thông suốt Phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều nhưng sống rất thanh đạm, Bà lập ra quy ước, định rằng những ngày giỗ tổ nội ngoại và ngày sinh (14 tháng 3), ngày hoá của bà khi bà trăm tuổi, đều dùng cỗ chay, oản quả cúng lễ, và lệ đó sẽ truyền mãi về sau. Khi tuổi đã cao bà về trụ trì chùa Vụ Nông, huyện Gia Lâm. Khi Trịnh Tạc (hoàng tổ Dương Vương) lên ngôi, cho tìm nữ học sĩ dạy cung nhân, các quan đều đề cử bà. Dương Vương cho mời bà vào cung , dạy cung nhân gọi bà là Đức Lão lễ Sư. Gần 80 tuổi, bà dựng một am nhỏ trước mộ tổ, trên một đỉnh đồi thấp ở chân núi Phượng Hoàng, cách chùa Huyền Thiên 200m về phía nam. Bà qua đời ngày 8 tháng 11, khi bà đã ngoài 80 tuổi, từng trải ba đời vua: Lê Thần Tông (1619 – 1643), Lê Chân Tông (1643 – 1649), Lê Thần Tông (làm vua lần thứ hai, 1649 – 1662). Sau khi bà qua đời, di hài của bà được mai táng bên cạnh mộ tổ, trên xây một ngôi tháp hồng bằng gạch, từ xa đã nhìn rõ. Đến cuối triều Hậu Lê (thế kỷ XVIII) lăng mộ của bà được các sử gia đương thời xếp vào hàng “Chí Linh bát cổ” nghĩa là một trong tám di tích cổ của huyện Chí Linh, có tên là Tinh Phi cổ tháp. Từ năm 2004 trở lại đây nhận thấy tầm quan trọng của di tích, đặc biệt là về giá trị lịch sử của danh nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 2006 UBND tỉnh đã ký quyết định số 2283/ Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân phê duyệt dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Thị Duệ. Dự án gồm các hạng mục: Đền chính, Tả hữu vu, Tam quan, 2 am hoá vàng và cải tạo nâng cấp Lăng mộ. Sau một thời gian ngắn thi công đến nay đã hoàn thành ba hạng mục: Đền chính, hai am hoá vàng và sân trước. Đền thờ Nguyễn Thị Duệ được xây dựng trên cơ sở của ngôi đền cũ trên đỉnh đồi Mâm Xôi. mặt hướng theo phía tây nam. Theo thuyết phong thuỷ thế đất của đền như viên ngọc được bao bọc bởi dãy núi Phượng Hoàng. Phía trước là một đập nước rộng mênh mang chấp chới những cánh cò, cánh vạc vào những buổi hoàng hôn đã khẳng định nơi đây quả thật đất lành. Đền thờ bà chúa Sao Sa kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền tế ba gian hai dĩ và một gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là Tinh Phi cổ tháp. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh , tỉnh Hải Dương.
Hải Phòng 3112 lượt xem
Đền Chu Văn An nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25 tháng 8 và ngày 26 tháng 11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998. Khu lăng mộ nằm ẩn sâu trong khe núi Phượng Hoàng, cách đền thờ chừng 600m. Khu lăng mộ thầy Chu Văn An được tu bổ từ nguồn kinh phí của các thầy trò trong ngành giáo dục tỉnh Hải Dương. Lối mòn nhỏ với những lớp đá sỏi chênh vênh được che mát bởi tán thông rừng sẽ đưa du khách đến viếng mộ thầy. Tương truyền, khi thầy Chu Văn An mất (1370) các học trò đã mang thầy lên táng tại đỉnh núi Phượng Hoàng và dựng nhà bên mộ tế lễ cả năm để tỏ lòng thương tiếc. Chính điện của đền nằm trên một vị trí cao, thoáng đãng, với lối kiến trúc chữ đinh (J), chồng diên 8 mái, những đầu đai cong vút tạo vẻ thanh thoát, linh thiêng, bờ nóc đắp nổi ‘‘lưỡng long chầu nhật”, phía trước là một đôi rồng đá lớn cùng bậc thềm đá cao. Điều đặc biệt ở đây là du khách khi vào viếng đền thầy ngoài dâng lễ chay, lễ mặn thường dâng cả bút, sách vở để cầu công danh, khoa cử, học hành. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Phòng 2953 lượt xem
Di tích Đền Sinh – đền Hóa tọa lạc trên sườn núi Ngũ Nhạc thôn An Mô xã Lê Lợi huyện Chí Linh. Đền là một công trình kiến trúc cổ, tựa lưng vào núi Ngũ Nhạc nhìn ra hướng Đông Bắc giữa bạt ngàn cây rừng xen lẫn những đồi vải thiều xum xuê. Đền Sinh thờ nơi sinh, đền Hóa thờ nơi hóa của tướng quân Chu Phúc Uy – thiên thần thời tiền Lý ( 544) Đền Sinh - đền Hóa (đền Mẫu Sinh – Thánh Hóa) ngày nay còn có tên là đền Thánh Phi Bồng, đền Thánh An Mô nay thuộc xã Lê Lợi – huyện Chí Linh. Đền ở trên sườn núi Ngũ Nhạc, giữa rừng cây bát ngát. Đó đây có những khối đá kỳ dị bên suối nước ngầm chảy rì rầm trong lòng đất hòa cùng tiếng thông reo vi vu. Trên mặt suối những viên cuội lớn được thời gian và nước suối mài nhẵn chồng xếp lên nhau. Xa xa trên đỉnh núi, thấp thoáng vài miếu cổ trong làn mây trắng nhẹ bay. Cảnh tượng này khiến người ta nghĩ đến những sự tích thần bí. Căn cứ lịch sử và thần tích thì đền Sinh – đền Hóa ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng di tích hiện còn được tái tạo vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đền Sinh xây dựng theo hình chữ Tam gồm 3 tòa liền nhau, phần hậu cung xây trùm lên khối đá kỳ dị được mô tả trong huyền thoại. Ở đây có tượng Mẫu – tượng bà Hoàng Thị Ba. Tại đền còn nhiều cổ vật và hai tấm bia nói về thần tích và quá trình trùng tu đền. Đền Hóa có hình thức và kiến trúc tương tự đền Sinh nhưng quy mô lớn hơn trên một khu đất tương đối bằng phẳng. Trung từ tái tạo năm Tự Đức Kỷ Mão (1879). Hậu cung có tượng tướng quân Chu Phúc Uy và nhiều đồ tế tự có giá trị. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Đền Sinh – đền Hóa trở thành nơi họp kín của cơ sở cách mạng ( 1943- 1944). Năm 1947, đền Sinh – đền Hóa thành nơi hội họp của các tổ chức cách mạng tại địa phương. Cuối năm 1947, đầu năm 1948, xưởng quân khí của huyện Chí Linh – Nam Sách – Kinh Môn đã chọn đền Hóa làm nơi sản xuất vũ khí. Trong kháng chiến chống Mỹ (1969 – 1972) đền Sinh – đền Hóa là nơi tạm trú để giảng dạy và học tập của cán bộ, sinh viên trường Đại học Lâm nghiệp. Xét về cảnh quan, kiến trúc, ý nghĩa lịch sử văn hóa và những sự kiện trong thời kỳ cách mạng kháng chiến, Bộ Văn hóa – thông tin đã ra quyết định số 295/ QĐ – BT ngày 12 tháng 12 năm 1994 xếp hạng khu di tích đền Sinh – đền Hóa nhằm bảo tồn một di sản văn hóa, một cảnh đẹp tự nhiên, mở rộng không gian du lịch và nội dung tham quan cho du khách khi đến với mảnh đất Chí Linh. Ngày nay tại đền Sinh, đền Hoá, hàng năm cứ đến tháng Năm và tháng Tám âm lịch. Vùng đất An Mô lại náo nhiệt, tưng bừng cho không khí vào hội. Lễ hội tháng năm là lễ hội chính tại đền Sinh, đền Hoá. Từ khắp các mọi miền đất nước khách hành hương về với lễ hội đền Sinh, đền Hoá, mang theo những tâm tư, những ước nguyện của mình để về với chốn tâm linh. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Phòng 2785 lượt xem